10 nền kinh tế châu Á nắm giữ 1/5 tài sản toàn cầu
Khối tài chính ở nước ngoài mà 10 nền kinh tế lớn nhất châu Á đang sở hữu hiện lên tới 28.000 tỷ USD, tương đương 1/5 số tài sản do người nước ngoài nắm giữ trên toàn cầu; Đánh dấu sự trỗi dậy mạnh mẽ tại khu vực này.
Các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á vốn được biết đến là khu vực đã định hình lại chuỗi cung ứng toàn cầu. Tuy nhiên, các nền kinh tế này không được đánh giá cao về khả năng xoay chuyển bản đồ dòng vốn toàn cầu.
Nhưng sau hơn một thập kỷ mua vào, 10 nền kinh tế lớn nhất trong khu vực hiện nắm giữ đến 28.000 tỷ USD tài sản tài chính ở nước ngoài. Con số này gấp hơn 3 lần so với năm 2005 và tương đương với 1/5 tài sản toàn cầu do người nước ngoài nắm giữ, tăng thị phần của khu vực trong tài sản tài chính do nước ngoài nắm giữ trên toàn cầu lên 5 điểm phần trăm.
Chiến lược tích tũy tài sản nước ngoài
Các tổ chức lâu đời ít được biết đến ở châu Á - từ các ngân hàng Nhật Bản và các công ty bảo hiểm Đài Loan cho đến các quỹ hưu trí của Hàn Quốc - giờ đây đã lấn sân sang các thị trường tài sản khác nhau, từ nghĩa vụ cho vay có thế chấp (CLO) ở Mỹ đến các tuyến đường sắt cao tốc ở Anh.
Đông Á từ lâu đã được công nhận góp phần vào tình trạng “Saving Glut” (tạm dịch: hiện tượng úng ngập tiết kiệm toàn cầu). Khái niệm này được phổ biến bởi Ben Bernanke, nguyên Thống đốc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ vào năm 2005, dùng để chỉ việc các nền kinh tế huy động tiền để tích luỹ tài sản ở nước ngoài và xuất khẩu vốn ra thế giới.
Khi nhiều nước châu Á ngày càng giàu có, quy mô nắm giữ cổ phần nước ngoài của họ ngày một tăng lên. The Economist đã xem xét các số liệu về tổng tài sản tài chính nước ngoài của 10 nền kinh tế Đông Nam Á và Đông Nam Á, không bao gồm đầu tư trực tiếp nước ngoài của các công ty đa quốc gia.
Cùng với đó, cơ cấu tích luỹ tài sản của châu Á cũng đã thay đổi. Vào năm 2005, dự trữ ngoại hối do các chính phủ và ngân hàng trung ương thuộc nhóm 10 nền kinh tế lớn nhất nắm giữ trung bình chiếm khoảng một nửa tài sản tài chính nước ngoài của một số quốc gia.
Những tài sản này đã được dự trữ sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997 - 1998 như một bức tường thành chống lại sự sụp đổ tiền tệ trong tương lai và được lưu trữ trong các tài sản an toàn, có tính thanh khoản cao.
Mặt khác, tỷ lệ dự trữ ngoại hối trung bình hiện đã giảm xuống gần 1/3. Trong khi đó, 2/3 số tài sản còn lại phản ánh sự bùng nổ danh mục đầu tư và các dòng tài sản tài chính khác, khi các nhà đầu tư tổ chức trong khu vực “săn lùng” lợi tức.
Sự thay đổi này đang thu hút sự chú ý của các cơ quan giám sát tài chính. Vào tháng 12/2021, Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS), một câu lạc bộ các ngân hàng trung ương, kết luận rằng các nhà đầu tư tổ chức châu Á đã góp phần gây ra căng thẳng tài trợ bằng đồng USD vào tháng 3/2020, khi COVID-19 lần đầu tiên bắt đầu lan rộng khiến thị trường hoảng loạn. Tuy nhiên, nhiều điều về các mối liên kết tài chính này và những rủi ro liên quan đến chúng, vẫn chưa được hiểu rõ.
Thay đổi cách tiếp cận để bứt phá
10 thị trường được The Economist nghiên cứu được chia thành ba nhóm. Nhóm giàu nhất - Hong Kong, Nhật Bản và Singapore - nắm giữ dự trữ ngoại hối đáng kể, nhưng lượng dự trữ tài sản tài chính khác của họ lớn hơn từ năm đến tám lần. Khối tài sản hiện tại của họ đã ổn định và tăng trưởng chậm hơn theo tiêu chuẩn khu vực.
Một sự thay đổi lớn hơn đã diễn ra ở hai thị trường Hàn Quốc và Đài Loan. Vào năm 2005, gần một nửa tài sản tài chính nước ngoài của Đài Loan và 2/3 tài sản của Hàn Quốc ở dạng dự trữ ngoại hối. Mặc dù lượng dự trữ nắm giữ kể từ đó đã tăng hơn gấp đôi với cả hai, nhưng danh mục đầu tư và các tài sản khác lại còn mở rộng với tốc độ nhanh hơn rất nhiều.
Đến thời điểm này, Hàn Quốc và Đài Loan sở hữu lần lượt 1.500 tỷ USD và 2.100 tỷ USD tài sản tài chính nước ngoài, số tài sản nắm giữ trong quỹ dự trữ ngoại hối giảm xuống chưa đến 1/3. Malaysia cũng vậy khi tài sản tài chính không phải là dự trữ ngoại hối hiện nhiều hơn tài sản dự trữ hai lần.
Ngược lại, đối với nhóm thứ ba, gồm Trung Quốc, Indonesia, Philippines và Thái Lan, dự trữ ngoại hối vẫn chiếm tỷ trọng lớn.
Sự tăng trưởng trong nắm giữ tài sản tài chính nước ngoài đi đôi với việc biến các nhà đầu tư tổ chức bảo thủ thành những người chơi lớn ở nhiều phân khúc thị trường tài chính. Có thể kể đến Ngân hàng Norinchukin, một hợp tác xã nông nghiệp có trụ sở tại Nhật Bản.
Họ nắm giữ khoảng 4.800 tỷ Yên (42 tỷ USD) CLO, loại chứng khoán được tạo thành từ một danh mục các khoản cho vay, hầu hết được định giá bằng USD. Trước khi việc mua vào chậm lại vào năm 2019, Nhật Bản từng được coi là nước mua CLO lớn nhất ở Mỹ.
Riêng các công ty bảo hiểm Đài Loan như Cathay và Fubon, đã trở thành các tổ chức có ảnh hưởng trên một số thị trường quốc tế. Tổng tài sản của họ đã tăng gần gấp ba trong thập kỷ qua và nhiều trong số đó hiện nằm ở nước ngoài. Đến cuối năm 2020, gần 60% tài sản của họ bao gồm các khoản đầu tư nước ngoài, tăng so với mức 30% của năm 2010.
Dịch vụ Hưu trí Quốc gia Hàn Quốc cũng đã tìm cách tiếp cận nhiều hơn tài sản ở nước ngoài bằng việc thông báo một loạt các dự án toàn cầu. Tài sản nước ngoài chiếm 37% quỹ hưu trí vào năm ngoái, gần gấp đôi tỷ trọng vào năm 2013.
Công ty đặt mục tiêu tăng con số đó lên 50% vào năm 2024, đồng thời triển khai chiến lược theo đuổi lợi nhuận không chỉ ở nước ngoài mà còn ở các loại tài sản kém thanh khoản hơn. Kế hoạch này được thực hiện mau chóng trước khi các khoản chi trả lợi ích của quỹ bắt đầu tăng vào đầu những năm 2040 và thặng dư doanh thu của quỹ chuyển sang thâm hụt.
Quỹ Bảo trợ Người lao động (EPF) của Malaysia, quản lý các khoản đầu tư lương hưu bắt buộc cho nhân viên khu vực tư nhân của đất nước, cung cấp một minh họa khác về phạm vi tiếp cận tài sản nước ngoài của các tổ chức châu Á.
Hồi năm ngoái, công ty này đã ra mắt một quỹ đầu tư tư nhân lớn nhất thế giới, với BlackRock, HarbourVest Partners và Partners Group, mỗi bên quản lý một phần ba trong số 600 triệu USD được phân bổ. Tài sản nước ngoài của EPF cũng đã tăng từ 29% tổng tài sản vào giữa năm 2017 lên 37% vào giữa năm 2021.
Những mối nguy ẩn xuất hiện
Với kết quả của tất cả hoạt động này là các nhà đầu tư tổ chức châu Á đã trở thành những người mua khổng lồ trên một số thị trường nhất định. Tuy nhiên, Martin Whetton, Giám đốc điều hành Ngân hàng Commonwealth Bank of Australia, bình luận rằng: "Quy mô của họ không tương xứng ở Australia".
Ông Whetton cho hay, Australia là nơi có tài sản nước ngoài nhiều thứ ba đối với các công ty bảo hiểm nhân thọ Nhật Bản và có xu hướng chiếm khoảng 10-15% danh mục đầu tư của họ. Ông chỉ ra rằng các giao dịch mua tài sản bằng đồng AUD ở Bắc Á đủ lớn để thay đổi cơ sở hoán đổi tiền tệ chéo của quốc gia (tức các nhà giao dịch cao cấp trả tiền để tạm thời trao đổi tiền tệ).
Một số tổ chức đã đưa ra lời hứa về các khoản thanh toán đảm bảo cho khách hàng. Vây nên khi lãi suất giảm xuống mức đáy, họ không có lựa chọn nào khác ngoài việc tìm kiếm lợi tức trong các loại tài sản ít được đánh giá cao hơn hoặc kém thanh khoản hơn.
Những người trong ngành cảnh báo rằng, các công ty bảo hiểm trong khu vực ngày càng chuyển sang vay nợ thị trường mới nổi và trái phiếu châu Á do có lợi suất cao hơn. Các tài sản tư nhân, kém thanh khoản cũng trở nên phổ biến hơn.
Giám đốc công ty tư vấn đầu tư Anish Butani cho biết, các nhà đầu tư châu Á từ lâu đã bị thu hút bởi vốn cổ phần tư nhân và bất động sản. "Chúng tôi thực sự đang chứng kiến sự gia tăng hoạt động trong cơ sở hạ tầng và nợ tư nhân", ông nói.
Đối với các nhà quan sát như BIS và IMF, tất cả những điều này cho thấy rủi ro tài chính lớn hơn so với khi châu Á nắm giữ nhiều tài sản dưới dạng dự trữ ngoại hối an toàn, có tính thanh khoản cao.
Các dòng tài chính xuyên biên giới có thể biến động, truyền căng thẳng từ nơi này sang nơi khác và gây ra rủi ro cho cả người mua và thị trường mà họ tham gia. Mặc dù nhiều tổ chức phải thanh toán cho khách hàng bằng nội tệ của họ, nhưng một số ít dường như có thể tự bảo hiểm cho toàn bộ rủi ro ngoại tệ.
Có thể nói, tài sản tư nhân khó bán nhanh ở mức giá đáng tin cậy, có khả năng gây ra các vấn đề về thanh khoản nếu các nhà đầu tư cần rút ra. Các số liệu chính xác, mạch lạc về cơ cấu, mức độ rủi ro và tính thanh khoản của các tài sản nắm giữ vẫn khó có thể nắm bắt đầy đủ, gây khó khăn cho việc đánh giá bức tranh tổng thể.