Bộ Tài chính phản hồi kiến nghị cử tri về đất nông nghiệp

Minh Hà

Bộ Tài chính vừa có phản hồi chính thức về kiến nghị của cử tri TP. Hải Phòng liên quan đến tiền sử dụng đất trước khi chuyển mục đích sử dụng đất được tính đối với loại đất nông nghiệp tự khai hoang và việc nộp tiền sử dụng đất riêng đối với loại đất nông nghiệp được xác định do vượt hạn mức đất ở đối với thửa đất có nhà ở sử dụng ổn định trước năm 1980.

Pháp luật về đất đai đã quy định về thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai khi cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Pháp luật về đất đai đã quy định về thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai khi cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Mới đây, Bộ Tài chính đã có văn bản trả lời ý kiến, kiến nghị của cử tri TP. Hải Phòng do Ban Dân nguyện - Ủy ban Thường vụ Quốc hội chuyển đến. Nội dung thứ nhất cử tri phản ánh, hiện nay các địa phương còn tồn tại nhiều thửa đất nông nghiệp do khai hoang sử dụng ổn định (ruộng cá thể) của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp. Đến nay, các thửa đất trên phù hợp quy hoạch, đủ điều kiện chuyển mục đích quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 116 Luật Đất đai năm 2024.

Tuy nhiên, tại Điều 8 Nghị định số 103/2024/NĐ-CP ngày 30/7/2024 của Chính phủ không quy định về việc tiền sử dụng đất trước khi chuyển mục đích sử dụng đất được tính đối với loại đất nông nghiệp tự khai hoang để sử dụng như trên nên không có cơ sở để tính tiền sử dụng đất. Do đó, cử tri kiến nghị trình Chính phủ xem xét sửa đổi Điều 8 Nghị định số 103/2024/NĐ-CP để đảm bảo quyền lợi của người dân.

Bên cạnh nội dung trên, cử tri kiến nghị xem xét, bổ sung quy định về việc nộp tiền sử dụng đất riêng đối với loại đất nông nghiệp được xác định do vượt hạn mức đất ở đối với thửa đất có nhà ở sử dụng ổn định trước năm 1980, không có giấy tờ, không vi phạm pháp luật đất đai, đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Mức nộp tiền sử dụng đất bằng mức nộp tiền của loại đất tương tự chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quy định tại Điều 10 Nghị định số 103/2024/NĐ-CP ngày 30/7/2024 của Chính phủ.

Phản hồi kiến nghị thứ nhất của cử tri, Bộ Tài chính cho biết, tại Luật Đất đai năm 2024 (khoản 2 Điều 10) quy định về xác định loại đất; theo đó, đối với trường hợp không có giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này thì việc xác định loại đất thực hiện theo quy định của Chính phủ.

Tại Điều 7 Nghị định số 102/2024/NĐ-CP ngày 30/7/2024 của Chính phủ quy định việc xác định loại đất đối với trường hợp không có giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều 10 Luật Đất đai. 

Tại khoản 2 Điều 8 Nghị định số 103/2024/NĐ-CP ngày 30/7/2024 của Chính phủ quy định về tính tiền đất trước khi chuyển mục đích sử dụng đất theo từng loại đất trước khi chuyển mục đích.

Như vậy, để xác định tiền đất trước khi chuyển mục đích sử dụng đất đối với đất không có giấy tờ (trong đó có đất có nguồn gốc do khai hoang) thì trước hết phải xác định đất có nguồn gốc do khai hoang đó thuộc loại đất nào theo quy định tại khoản 2 Điều 10 Luật Đất đai năm 2024, Điều 7 Nghị định số 102/2024/NĐ-CP của Chính phủ và có thuộc trường hợp được chuyển mục đích sử dụng đất hay không.

Các nội dung này thuộc thẩm quyền hướng dẫn của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Vì vậy, Bộ Tài chính đề nghị Đoàn Đại biểu Quốc hội TP. Hải Phòng kiến nghị với Bộ Tài nguyên và Môi trường để được hướng dẫn.

Trả lời cử tri về kiến nghị thứ hai, Bộ Tài chính cho biết, tại Điều 138 Luật Đất đai năm 2024 quy định rõ việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất đối với trường hợp hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có giấy tờ về quyền sử dụng đất, mà không vi phạm pháp luật về đất đai, không thuộc trường hợp đất được giao không đúng thẩm quyền.

Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất đối với trường hợp hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định mà không có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại Điều 137 của Luật này, không thuộc trường hợp quy định tại Điều 139 và Điều 140 của Luật này được thực hiện theo quy định...

Điều 156 Luật Đất đai năm 2024 quy định rõ việc nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất khi chuyển mục đích sử dụng đất, gia hạn sử dụng đất, điều chỉnh thời hạn sử dụng đất. Theo đó, khi chuyển mục đích sử dụng đất quy định tại khoản 1 Điều 121 của Luật này thì người sử dụng đất phải nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất theo quy định sau đây:

- Nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất trả một lần cho cả thời gian thuê bằng mức chênh lệch giữa tiền sử dụng đất, tiền thuê đất của loại đất sau khi chuyển mục đích sử dụng đất và tiền sử dụng đất, tiền thuê đất của loại đất trước khi chuyển mục đích sử dụng đất cho thời gian sử dụng đất còn lại.

- Nộp tiền thuê đất hằng năm theo loại đất sau khi chuyển mục đích sử dụng đất.

Như vậy, pháp luật về đất đai đã quy định về thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai khi cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất và khi chuyển mục đích sử dụng đất theo quy định.

Căn cứ quy định của pháp luật về đất đai, Bộ Tài chính cho biết, Chính phủ đã quy định chi tiết việc tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất tại Nghị định số 103/2024/NĐ-CP ngày 30/7/2024 của Chính phủ (điểm b khoản 1 Điều 10 và Điều 8).