Chính sách thuế đối với khoản tài trợ dự án?
Phúc đáp nhứng vướng mắc của doanh nghiệp trong quá trình thực thi chính sách thuế liên quan đến khoản tài trợ dự án phát triển hồ tiêu bền vững của Công ty TNHH Harris Freeman Việt Nam, ngày 01/8/2017, Cục Thuế tỉnh Bình Dương đã có công văn hướng dẫn cụ thể để doanh nghiệp áp dụng.
Theo đó, căn cứ vào nội dung vướng mắc của Công ty là về việc hạch toán thu, chi tiền tài trợ phát triển dự án hồ tiêu bền vững tại Việt Nam, Cục thuế Bình Dương có ý kiến giải đáp cụ thể như sau:
Thứ nhất, về chính sách thuế giá trị gia tăng (GTGT), thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) đối với khoản tài trợ dự án.
Căn cứ điểm a, khoản 7, Điều 3 Thông tư số 26/2015/TT-BTC ngày 27/02/2015 của Bộ Tài chính quy định về lập hóa đơn: Người bán phải lập hóa đơn khi bán hàng hóa, dịch vụ, bao gồm cả các trường hợp hàng hoá, dịch vụ dùng để khuyến mại, quảng cáo, hàng mẫu; hàng hoá, dịch vụ dùng để cho, biếu, tặng, trao đổi, trả thay lương cho người lao động (trừ hàng hoá luân chuyển nội bộ, tiêu dùng nội bộ để tiếp tục quá trình sản xuất.
Căn cứ điểm d, khoản 7, Điều 5 và khoản 1, Điều 14 Thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Luật Thuế GTGT và Nghị định số 209/2013/NĐ-CP ngày 18/12/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Luật Thuế GTGT quy định: Cơ sở kinh doanh không phải kê khai, nộp thuế trong đối với các khoản thu hộ không liên quan đến việc bán hàng hóa, dịch vụ của cơ sở kinh doanh.
Việc khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào cần tuân thủ theo nguyên tắc: Thuế GTGT đầu vào của hàng hóa, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT được khấu trừ toàn bộ, kể cả thuế GTGT đầu vào không được bồi thường của hàng hóa chịu thuế GTGT bị tổn thất.
Căn cứ khoản 7, Điều 8 Thông tư số 78/2014/TT-BTC ngày 18/6/2014 của Bộ Tài chính quy định các khoản thu nhập được miễn thuế TNDN gồm: Khoản tài trợ nhận được để sử dụng cho hoạt động giáo dục, nghiên cứu khoa học, văn hóa, nghệ thuật, từ thiện, nhân đạo và hoạt động xã hội khác tại Việt Nam.
Trường hợp tổ chức nhận tài trợ sử dụng không đúng mục đích các khoản tài trợ trên thì tổ chức nhận tài trợ phải tính nộp thuế thu nhập doanh nghiệp tính trên phần sử dụng sai mục đích trong kỳ tính thuế phát sinh việc sử dụng sai mục đích.
Tổ chức nhận tài trợ quy định tại Khoản này phải được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật, thực hiện đúng quy định của pháp luật về kế toán thống kê.
Từ những căn cứ pháp lý nêu trên, nội dung vướng mắc và nội dung Hợp đồng tài trợ được ký giữa Công ty với Harris Freeman Foundation (gọi tắt là HFF-một tổ chức phi lợi nhuận có trụ sở tại California, Hoa Kỳ), HFF sẽ tài trợ cho Công ty số tiền để làm Quỹ thực hiện Dự án nông nghiệp hồ tiêu bền vững tại huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu Việt Nam, khoản tài trợ nằm trong các khoản chi cho mục đích từ thiện.
Công ty có trách nhiệm chi Quỹ đúng mục đích và tuân thủ yêu cầu của pháp luật Hoa Kỳ, dưới sự giám sát của HFF, trường hợp Công ty chi không hết số tiền tài trợ thì phải hoàn trả lại cho HFF khi kết thúc hợp đồng. Công ty không phát sinh bất kỳ khoản doanh thu hay thu nhập nào từ hoạt động nhận tiền tài trợ này, đồng thời Công ty cũng không có nghĩa vụ giao hàng hóa hay cung cấp dịch vụ cho HFF.
Do đó, khoản tiền tài trợ nêu trên được xem là khoản thu, chi hộ, Công ty lập chứng từ thu, chi theo quy định,Công ty không phải kê khai, nộp thuế GTGT. Đồng thời khoản tài trợ nhận được nêu trên nhằm mục đích từ thiện, nhân đạo nên thuộc diện được miễn thuế TNDN. Công ty không được kê khai khấu trừ thuế GTGT đầu vào và hạch toán vào chi phí được trừ khi tính thu nhập chịu thuế TNDN đối với các khoản chi từ nguồn tài trợ trên.
Thứ hai, về chính sách thuế TNCN đối với cá nhân tham gia Dự án
Căn cứ khoản 2, Điều 2, Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013 của Bộ Tài chính quy định về thu nhập từ tiền lương, tiền công gồm: Tiền lương, tiền công và các khoản có tính chất tiền lương, tiền công dưới các hình thức bằng tiền hoặc không bằng tiền.
Căn cứ điểm i, khoản 1, Điều 25 Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013 của Bộ Tài quy định về khấu trừ thuế TNCN đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công: Các tổ chức, cá nhân trả tiền công, tiền thù lao, tiền chi khác cho cá nhân cư trú không ký hợp đồng lao động (theo hướng dẫn tại điểm c, d, khoản 2, Điều 2 Thông tư này) hoặc ký hợp đồng lao động dưới ba (03) tháng có tổng mức trả thu nhập từ hai triệu (2.000.000) đồng/lần trở lên thì phải khấu trừ thuế theo mức 10% trên thu nhập trước khi trả cho cá nhân.
Căn cứ khoản 1, Điều 6 Luật Thương mại số 36/2005/QH11 ngày 14/6/2005 quy định về cá nhân kinh doanh:Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh.
Căn cứ quy định nêu trên, trường hợp Công ty ký hợp đồng với cá nhân không đăng ký kinh doanh để thực hiện dịch vụ hỗ trợ kỹ thuật, khảo sát, lập hồ sơ canh tác, đào tạo cho nông dân... thì thu nhập mà cá nhân nhận được thuộc diện chịu thuế TNCN. Công ty có trách nhiệm khấu trừ thuế TNCN theo thuế suất 10% trên thu nhập trước khi chi trả cho cá nhân với tổng mức chi trả từ hai triệu (2.000.000) đồng/lần trở lên, không phân biệt cá nhân là đại diện cho nhóm cá nhân.
Thứ ba, về hạch toán kế toán đối với khoản thu chi của Dự án.
Về hạch toán kế toán đối với khoản thu chi hộ của Dự án, Công ty căn cứ quy định của Luật kế toán hiện hành và Chế độ kế toán doanh nghiệp theo Thông tư số 200/2014/TT-BTC ngày 22/12/2014 của Bộ Tài chính hoặc Chế độ kế toán doanh nghiệp nhỏ và vừa theo Thông tư số 133/2016/TT-BTC ngày 26/08/2016 của Bộ Tài chính để thực hiện.
Trường hợp còn vướng mắc Công ty liên hệ Vụ Chế độ kế toán, kiểm toán - Bộ Tài chính để được hướng dẫn theo thẩm quyền.