"Chốt" Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi) có hiệu lực từ ngày 1/10/2025

Trần Huyền

Với đa số đại biểu tham gia biểu quyết tán thành, Quốc hội đã chính thức thông qua Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi). Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/10/2025 và áp dụng cho kỳ tính thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025.

Các đại biểu bấm nút biểu quyết thông qua Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi).
Các đại biểu bấm nút biểu quyết thông qua Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi).

Luật quy định, thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp bao gồm thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ và thu nhập khác.

Trong đó, thu nhập khác bao gồm: Thu nhập từ chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng quyền góp vốn, chuyển nhượng chứng khoán; Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản, trừ thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản của doanh nghiệp kinh doanh bất động sản; Thu nhập từ chuyển nhượng dự án đầu tư, chuyển nhượng quyền tham gia dự án đầu tư, chuyển nhượng quyền thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản; Thu nhập từ chuyển nhượng, cho thuê, thanh lý tài sản, trong đó có các loại giấy tờ có giá, trừ bất động sản; Thu nhập từ quyền sử dụng, quyền sở hữu tài sản, bao gồm cả thu nhập từ quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ.

Thu nhập khác còn bao gồm: Thu nhập từ lãi tiền gửi, lãi cho vay vốn, bán ngoại tệ, trừ thu nhập từ hoạt động tín dụng của tổ chức tín dụng; Khoản trích trước vào chi phí nhưng không sử dụng hoặc sử dụng không hết mà doanh nghiệp không hạch toán điều chỉnh giảm chi phí được trừ; khoản nợ khó đòi đã xóa nay đòi được; khoản nợ phải trả không xác định được chủ nợ; khoản thu nhập từ kinh doanh của những năm trước bị bỏ sót nay phát hiện ra.

Chênh lệch giữa thu về tiền phạt, tiền bồi thường do vi phạm hợp đồng kinh tế hoặc thưởng do thực hiện tốt cam kết theo hợp đồng; Các khoản tài trợ, tặng cho bằng tiền hoặc hiện vật nhận được; Chênh lệch do đánh giá lại tài sản theo quy định của pháp luật để góp vốn, điều chuyển khi sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi chủ sở hữu, chuyển đổi loại hình doanh nghiệp; Thu nhập từ hợp đồng hợp tác kinh doanh; Thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh ở nước ngoài; Thu nhập của đơn vị sự nghiệp công lập đối với các hoạt động cho thuê tài sản công; Các khoản thu nhập khác, trừ các khoản thu nhập được miễn thuế... cũng được quy định là thu nhập khác.

Trước đó, báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi), Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội Phan Văn Mãi cho biết, về thu nhập được miễn thuế, có ý kiến đề nghị cân nhắc thận trọng và quy định chặt chẽ hơn đối với việc miễn thuế cho khoản tài trợ cho hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong trường hợp giữa các bên có quan hệ liên kết.

Theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, về cơ bản, đối với các khoản tài trợ trong lĩnh vực phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, dự thảo Luật đã quy định cho miễn thuế để triển khai thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW. Riêng đối với trường hợp khoản tài trợ nhận được giữa các bên có quan hệ liên kết thì có rủi ro bị lợi dụng để thực hiện chuyển lợi nhuận, chuyển giá, làm giảm nghĩa vụ thuế, đặc biệt là khi các khoản chi cho phát triển khoa học, công nghệ, chuyển đổi số... thường rất lớn, phạm vi rộng và việc định giá theo thị trường là khó khả thi.

Vì vậy, tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, dự thảo Luật đã được chỉnh lý theo hướng quy định việc miễn thuế đối với các khoản tài trợ trong lĩnh vực này, song có loại trừ trường hợp khoản tài trợ là nhận được từ doanh nghiệp có quan hệ liên kết.

Đối với các khoản chi được trừ và không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế, có ý kiến cho rằng, nên quy định doanh nghiệp được phép khấu trừ 200% chi phí thực tế cho hoạt động nghiên cứu và phát triển bao gồm cả chi phí thử nghiệm và triển khai công nghệ mới khi tính thu nhập chịu thuế.

Dự thảo Luật đã quy định cho phép doanh nghiệp được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế khoản chi phí bổ sung áp dụng cho hoạt động nghiên cứu và phát triển của doanh nghiệp tính theo tỷ lệ phần trăm trên chi phí thực tế và giao Chính phủ quy định chi tiết về mức chi được trừ bổ sung, điều kiện và phạm vi áp dụng… Dự thảo Luật không quy định mức chi cũng như các nội dung chi cụ thể để bảo đảm linh hoạt cho Chính phủ trong xây dựng chính sách và tổ chức thực hiện, phù hợp với tình hình thực tiễn và khả năng ngân sách trong từng thời kỳ. Do đó, Ủy ban đề nghị giữ như dự thảo Luật.

Về thuế suất, có ý kiến cho rằng, quy định về thuế suất ưu đãi (15%, 17%) không áp dụng đối với các doanh nghiệp là công ty con hoặc công ty có quan hệ liên kết là chưa phù hợp. Có ý kiến cho rằng, cách tiếp cận dựa trên doanh thu là chưa phù hợp với tình hình thực tế của nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt là các doanh nghiệp khởi nghiệp và các doanh nghiệp công nghệ cao.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, Dự thảo Luật quy định không áp dụng đối với doanh nghiệp là công ty con hoặc công ty có quan hệ liên kết mà doanh nghiệp trong quan hệ liên kết không phải là doanh nghiệp đáp ứng điều kiện áp dụng thuế suất ưu đãi là để bảo đảm tính chặt chẽ, tránh tình trạng doanh nghiệp lợi dụng chính sách, chia, tách doanh nghiệp để được hưởng ưu đãi thuế. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong trường hợp có quan hệ liên kết với doanh nghiệp lớn thì về bản chất không phải là các doanh nghiệp vừa và nhỏ thông thường.

Ngoài ra, Nghị quyết số 198/NQ-QH15 đã quy định các ưu đãi, hỗ trợ riêng với mức ưu đãi cao hơn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp công nghệ cao. Dự thảo Luật quy định việc áp dụng thuế suất ưu đãi dựa trên tiêu chí doanh thu là để phù hợp với thực tiễn, tạo thuận lợi cho quá trình thực hiện và về cơ bản, không mâu thuẫn với quy định của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Do đó, Ủy ban đề giữ như dự thảo Luật.