Chủ động phòng ngừa và chuẩn bị sẵn sàng các nguồn lực ứng phó với sự cố chất thải
Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Quy chế ứng phó sự cố chất thải. Quy chế quy định việc ứng phó sự cố chất thải xảy ra trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, bao gồm: Chuẩn bị ứng phó sự cố; tổ chức ứng phó sự cố; cải tạo, phục hồi môi trường sau sự cố; cơ chế hỗ trợ ứng phó, phục hồi môi trường, sự tham gia của cộng đồng dân cư và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.

Theo Quy chế ứng phó sự cố chất thải ban hành kèm theo Quyết định số 11/2025/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ có hiệu lực thi hành từ ngày 10/6/2025, sự cố chất thải được định nghĩa là sự cố môi trường do rò rỉ, tràn đổ, phát tán chất thải trong quá trình xử lý và tiêu hủy.
Quy chế này không điều chỉnh sự cố chất thải xảy ra trên biển. Việc ứng phó sự cố chất thải xảy ra trên biển được thực hiện theo quy định pháp luật về ứng phó sự cố hóa chất độc, ứng phó sự cố tràn dầu và các quy định của pháp luật khác có liên quan.
Theo Quy chế, sự cố chất thải được phân cấp thành bốn cấp độ: cấp cơ sở, cấp huyện, cấp tỉnh và cấp quốc gia, tương ứng với phân cấp sự cố môi trường theo Luật Bảo vệ môi trường.
Quy chế đã nhấn mạnh việc chủ động phòng ngừa và chuẩn bị sẵn sàng các nguồn lực để ứng phó khi xảy ra sự cố. Việc ứng phó phải tuân theo phương châm bốn tại chỗ (chỉ huy, lực lượng, phương tiện, vật tư, hậu cần) và ba sẵn sàng (phòng ngừa chủ động, ứng phó kịp thời, khắc phục nhanh). Các biện pháp an toàn cho lực lượng ứng phó và người dân trong khu vực bị ảnh hưởng phải được đảm bảo.
Quy chế nêu rõ, các tổ chức, cá nhân gây ra sự cố phải chịu trách nhiệm chi trả chi phí ứng phó, cải tạo, phục hồi môi trường và bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Nhà nước chi trả theo quy định pháp luật.
Người đại diện theo pháp luật của cơ sở hoặc người được ủy quyền là người chỉ huy, tổ chức ứng phó sự cố tại cơ sở; đồng thời phải thực hiện đánh giá phạm vi ảnh hưởng và khả năng tự ứng phó của cơ sở. Trường hợp sự cố trong khả năng tự ứng phó của cơ sở, người chỉ huy có trách nhiệm thực hiện các biện pháp ứng phó sự cố theo kế hoạch, kịch bản đã được phê duyệt, báo cáo Ban chỉ huy phòng thủ dân sự cấp huyện và Ủy ban nhân dân cấp xã về việc ứng phó sự cố trong vòng 24 giờ kể từ thời điểm phát hiện sự cố.
Trường hợp sự cố vượt ngoài khả năng tự ứng phó của cơ sở, người chỉ huy phải thông báo ngay đến Ủy ban nhân dân cấp xã, Ban chỉ huy phòng thủ dân sự cấp xã nơi xảy ra sự cố hoặc Ban chỉ huy phòng thủ dân sự cấp huyện để được tổ chức ứng phó; bàn giao quyền chỉ huy cho Ban chỉ huy phòng thủ dân sự cấp huyện và chỉ đạo lực lượng ứng phó sự cố của cơ sở thực hiện theo yêu cầu của Ban chỉ huy phòng thủ dân sự cấp huyện.
Chủ dự án đầu tư, cơ sở gây ra sự cố chất thải phải thực hiện phục hồi môi trường sau sự cố chất thải trong phạm vi cơ sở. Ủy ban nhân dân cấp xã nơi xảy ra sự cố chất thải có trách nhiệm kiểm tra, giám sát hoạt động phục hồi môi trường.
Việc phục hồi môi trường sau sự cố chất thải cấp huyện, cấp tỉnh, cấp quốc gia được thực hiện theo quy định tại khoản 2, Điều 126 Luật Bảo vệ môi trường. Cơ quan chuyên môn về bảo vệ môi trường cấp tỉnh, cấp huyện có trách nhiệm tham mưu Ủy ban nhân dân cùng cấp trong việc chỉ đạo tổ chức thực hiện phục hồi môi trường sau sự cố chất thải trên địa bàn.
Cơ quan chuyên môn được phân công, giao nhiệm vụ của Bộ Nông nghiệp và Môi trường có trách nhiệm tham mưu Bộ này trong việc chỉ đạo tổ chức thực hiện phục hồi môi trường sau sự cố chất thải cấp quốc gia.
Việc cải tạo, phục hồi môi trường sau sự cố phải bảo đảm đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật về chất lượng môi trường xung quanh; phục hồi mặt bằng cư trú, sản xuất kinh doanh, môi trường tự nhiên đối với khu vực không có hệ sinh thái được bảo tồn; khôi phục một số đặc điểm chính của hệ sinh thái đối với khu vực có hệ sinh thái được bảo tồn.