Đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực hoạt động Kho bạc Nhà nước
Trong gia đoạn 2011-2015, đặc biệt là năm 2016 vừa qua, hệ thống Kho bạc Nhà nước (KBNN) đã kiện toàn bộ máy, tích cực xây dựng hành lang pháp lý, hoàn thiện chế độ chính sách, triển khai đồng bộ, có hiệu quả nhiều giải pháp cải cách mạnh mẽ trong toàn bộ hệ thống. Với những kết quả đạt được, hệ thống KBNN cơ bản đạt được mục tiêu Chiến lược phát triển KBNN đến năm 2020, tạo tiền đề cho giai đoạn tiếp theo.
Để hiện thực hóa mục tiêu hình thành Kho bạc điện tử vào năm 2020, hệ thống KBNN cần phải có những cải cách mạnh mẽ về cơ chế chính sách, quy trình nghiệp vụ trong nội bộ hệ thống, đặc biệt là các quy trình thủ tục về thu, chi ngân sách nhà nước (NSNN) theo hướng công khai, minh bạch nhằm giảm thiểu thời gian, thủ tục cho các đơn vị dự toán, chủ đầu tư, doanh nghiệp và người dân trong quá trình giao dịch thu, chi NSNN với hệ thống KBNN.
Thực hiện các nội dung nêu trên, trong những năm qua hệ thống KBNN đã triển khai đồng bộ, quyết liệt và có hiệu quả nhiều giải pháp như:
Triển khai dự án “Hiện đại hóa quy trình thu nộp thuế giữa cơ quan Thuế - Hải quan - KBNN”; dự án tổ chức phối hợp thu NSNN giữa các cơ quan trong ngành Tài chính với các NHTM… Trên cơ sở đó, đã áp dụng các hình thức thu nộp NSNN văn minh, hiện đại như ủy nhiệm thu NSNN bằng tiền mặt cho hệ thống NHTM đảm nhận; tổ chức thu NSNN qua hệ thống ATM, qua Internet, qua thiết bị chấp nhận thẻ tại KBNN (POS)…
Vì vậy, đã tạo thuận lợi cho người nộp NSNN, người nộp NSNN có thể lựa chọn nộp tiền tại các điểm thu của NHTM, trụ sở KBNN nơi thuận tiện với mình nhất; thực hiện nộp tiền ngoài giờ hành chính, nộp tiền vào thứ Bảy…; người nộp NSNN có thể tiếp cận các hình thức thu nộp văn minh, hiện đại do hệ thống NHTM cung cấp; từ đó, góp phần giảm thời gian thực hiện giao dịch nộp NSNN từ khoảng 30 phút/1 giao dịch xuống còn khoảng 5 phút/1 giao dịch.
Xây dựng và hoàn thiện cơ chế, quy trình kiểm soát chi NSNN qua KBNN theo hướng đơn giản, rõ ràng, minh bạch về hồ sơ, chứng từ, nội dung kiểm soát; đồng thời, phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn của các đơn vị, cá nhân có liên quan.
Cụ thể, đối với chi đầu tư đã rút ngắn thời gian kiểm soát chi (từ 7 ngày xuống còn khoảng 3 - 4 ngày làm việc), đơn giản hóa yêu cầu đối với hồ sơ đề nghị thanh toán, giảm số lượng mẫu biểu chứng từ thanh toán…
Đối với chi thường xuyên, đã bước đầu xây dựng ngưỡng để thực hiện kiểm soát chi, thực hiện kiểm soát chi theo cơ chế khoán đối với cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập; bỏ thủ tục kiểm soát chi liên quan đến nhu cầu chi quý; quy định rõ thời hạn kiểm soát chi tại KBNN; thí điểm thực hiện kiểm soát chi điện tử thông qua Cổng thông tin KBNN; xây dựng và triển khai quy trình kiểm soát chi một cửa theo nguyên tắc mỗi giao dịch viên là một cửa, trừ các khoản chi bằng tiền mặt; thống nhất đầu mối kiểm soát chi đầu tư và chi chương trình mục tiêu quốc gia nhằm tăng cường cải cách thủ tục hành chính trong kiểm soát chi NSNN…
Xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định số 192/2013/NĐCP ngày 21/11/2013 về xử phạt vi phạm hành chính; trong đó, có quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm soát chi NSNN qua KBNN nhằm góp phần nâng cao kỷ luật tài chính của các đơn vị dự toán, chủ đầu tư trong việc quản lý, sử dụng kinh phí NSNN cấp.
Hiện đại hóa công tác thanh toán trong nội bộ hệ thống KBNN và với hệ thống ngân hàng. Đến nay,
KBNN đã cơ bản hoàn thành việc triển khai thanh toán điện tử song phương tập trung với hệ thống NHTM; hoàn thành việc triển khai thanh toán điện tử liên kho bạc trong nội bộ hệ thống theo mô hình tập trung; triển khai thí điểm thanh toán điện tử liên ngân hàng với NHNN…
Bên cạnh đó, KBNN cũng đẩy mạnh việc tăng cường thanh toán không dùng tiền mặt (như ủy nhiệm thu NSNN bằng tiền mặt cho NHTM, triển khai việc chi tiền mặt qua hệ thống NHTM, thực hiện chi tiêu ngân sách qua thẻ tín dụng, thanh toán chi trả cá nhân qua tài khoản…).
Từ đó, vừa góp phần giảm tỷ trọng thanh toán bằng tiền mặt qua hệ thống KBNN, vừa hướng tới xây dựng kho bạc không giao dịch tiền mặt trong thời gian tới.
Tăng cường áp dụng các ứng dụng CNTT hiện đại vào các quy trình quản trị nội bộ hệ thống qua việc triển khai các chương trình ứng dụng như: Xây dựng và vận hành Cổng thông tin điện tử nội bộ hệ thống; chương trình quản lý tài chính nội bộ KBNN; xây dựng mạng intranet nội bộ phục vụ cho việc trao đổi thông tin, nghiệp vụ, thư điện tử… trên mạng điện tử; xây dựng hệ thống giao ban trực tuyến; triển khai chương trình quản lý văn bản và điều hành ngành Tài chính…
Từ đó, góp phần đáp ứng yêu cầu điện tử hóa công tác quản trị nội bộ hệ thống, tiết kiệm chi phí, nhân lực và hướng tới xây dựng Kho bạc điện tử.
Với những kết quả kể trên, hệ thống KBNN đã cơ bản đạt được mục tiêu triển khai thực hiện Chiến lược phát triển KBNN trong giai đoạn 2011 - 2015, tạo điều kiện tiền đề cho việc xây dựng Kho bạc hiện đại vào năm 2020.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, một số quy trình nghiệp vụ vẫn chưa được điện tử hóa mạnh mẽ, đặc biệt là quy trình về luân chuyển hồ sơ, chứng từ trong công tác kiểm soát chi NSNN qua KBNN vẫn chủ yếu là luân chuyển thủ công bằng chứng từ giấy.
Để xây dựng và hình thành “Kho bạc điện tử” vào năm 2020 theo định hướng Chiến lược phát triển KBNN đến năm 2020 đã đề ra, trong thời gian tới hệ thống KBNN cần tiếp tục cải cách mạnh mẽ về cơ chế chính sách và quy trình nghiệp vụ theo hướng đơn giản, giảm thiểu thủ tục hành chính; đồng thời, triển khai có hiệu quả các ứng dụng CNTT trong các hoạt động nghiệp vụ, trong đó, cần tập trung vào một số nội dung sau:
Hoàn thiện cơ chế chính sách và quy trình nghiệp vụ, đặc biệt là các quy trình nghiệp vụ về thu, chi NSNN theo hướng giảm thiểu hồ sơ, chứng từ trong quá trình các đơn vị, cá nhân giao dịch với KBNN, cụ thể:
Cải cách cơ chế kiểm soát chi NSNN qua KBNN theo hướng chuyển từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm” gắn với việc phát huy vị trí, vai trò của hệ thống thanh tra chuyên ngành KBNN đối với các đơn vị dự toán, chủ đầu tư trong quá trình quản lý, sử dụng kinh phí NSNN cấp.
Từ đó, vừa tạo thuận lợi cho các đơn vị, giải ngân nhanh vốn đầu tư, vừa hỗ trợ, tạo thuận lợi cho việc triển khai các hình thức giao dịch điện tử với KBNN.
Nghiên cứu xây dựng và triển khai mô hình kiểm soát chi theo rủi ro gắn với việc phát huy vai trò, trách nhiệm của các đơn vị trong việc quản lý sử dụng NSNN; cụ thể, thực hiện phân loại nội dung các khoản chi để từ đó đơn giản hóa việc kiểm soát, thanh toán (ví dụ, đối với một số khoản chi ít có rủi ro như chi điện, nước… thì KBNN có thể thực hiện thanh toán thẳng cho nhà cung cấp trên cơ sở dự toán của đơn vị, hóa đơn do nhà cung cấp gửi tới và thỏa thuận các bên giữa KBNN với đơn vị và nhà cung cấp); thực hiện đánh giá phân loại đơn vị sử dụng NSNN (qua quá trình kiểm soát chi và thanh tra chuyên ngành KBNN), xác định ngưỡng chi và nội dung chi để đơn giản hóa thủ tục kiểm soát chi NSNN đối với một số đơn vị và theo một số nội dung chi nhất định…
Tiếp tục rà soát, hoàn thiện các cơ chế chính sách về kiểm soát chi NSNN qua KBNN để đơn giản hóa thủ tục hành chính, nâng cao tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong công tác kiểm soát chi NSNN.
Nghiên cứu xây dựng cơ chế “ưu đãi” theo nhiều hình thức để thúc đẩy, khuyến khích các đơn vị dự toán, chủ đầu tư, người nộp thuế triển khai các hình thức giao dịch điện tử với KBNN.
Tiếp tục ứng dụng có hiệu quả CNTT vào quy trình quản lý thu NSNN theo hướng đơn giản về thủ tục hành chính, giảm thiểu thời gian và thủ tục nộp tiền cho người nộp NSNN.
Cụ thể, đẩy mạnh việc nộp thuế thông qua các hình thức thanh toán điện tử do hệ thống NHTM cung cấp như: Nộp thuế qua Internet, qua ATM, qua POS lắp đặt tại trụ sở KBNN…; nộp thuế qua Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế hoặc Cổng thanh toán điện tử của Tổng cục Hải quan; tăng cường ủy nhiệm thu NSNN bằng tiền mặt qua hệ thống NHTM; thực hiện thu nộp NSNN qua hệ thống bưu điện… Từ đó, giảm thiểu việc thu nộp thủ công bằng chứng từ giấy tại các đơn vị KBNN.
Nghiên cứu ứng dụng CNTT vào quy trình luân chuyển hồ sơ, chứng từ kiểm soát chi từ đơn vị dự toán, chủ đầu tư đến KBNN, chuyển từ việc luân chuyển thủ công hồ sơ, chứng từ giấy sang luân chuyển dưới dạng dữ liệu điện tử theo hướng:
(i) Luân chuyển hồ sơ, chứng từ qua mạng điện tử từ các đơn vị giao dịch đến KBNN thông qua Cổng thông tin điện tử KBNN, gắn với việc sử dụng chữ ký số theo quy định tại Nghị định số 156/2016/NĐ-CP ngày 21/11/2016 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 27/2016/NĐ-CP ngày 23/02/2007 của Chính phủ về giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính;
(ii) đối với các đơn vị chưa thực hiện luân chuyển chứng từ qua mạng điện tử, tiếp tục thực hiện luân chuyển hồ sơ, chứng từ giấy, song trên chứng từ có gắn mã vạch được in từ các chương trình kế toán của đơn vị để vừa giúp thủ trưởng đơn vị kiểm soát chặt chẽ các chứng từ trong quá trình luân chuyển chứng từ từ đơn vị đến KBNN (thông tin trên hồ sơ, chứng từ không bị làm sai lệch sau khi thủ trưởng đơn vị đã kiểm soát), vừa giúp KBNN giảm thiểu thời gian, công sức trong việc nhập liệu thủ công chứng từ (KBNN sử dụng các thiết bị đọc mã vạch để tải các thông tin trên chứng từ của đơn vị vào các chương trình ứng dụng tại KBNN); đồng thời, tránh rủi ro cho công chức KBNN trong việc kiểm soát chữ ký của thủ trưởng các đơn vị dự toán, chủ đầu tư (do mã vạch trên chứng từ có nội dung khẳng định chứng từ đó đã được thủ trưởng đơn vị kiểm soát).
Tăng cường thanh toán không dùng tiền mặt qua hệ thống KBNN như: Thực hiện ủy nhiệm thu bằng tiền mặt qua NHTM; phối hợp thu NSNN bằng tiền mặt qua hệ thống bưu điện; kiểm soát chặt các nội dung chi bằng tiền mặt theo chế độ quy định; thực hiện chi bằng tiền mặt qua NHTM đối với các khoản chi có giá trị lớn (trước mắt là các khoản chi bằng tiền mặt có giá trị từ 1 tỷ đồng trở lên; về lâu dài, tiếp tục nghiên cứu sửa đổi cơ chế để điều chỉnh giảm dần mức giá trị, tiến tới cơ bản các đơn vị KBNN không thực hiện chi tiền mặt vào năm 2020, trừ một số khoản chi mang tính nhỏ lẻ).
Bên cạnh đó, hoàn thành việc triển khai mở rộng thanh toán điện từ liên ngân hàng với NHNN, hình thành hệ thống tài khoản thanh toán tập trung của KBNN; từ đó, vừa góp phần thanh toán nhanh chóng, chính xác, an toàn các khoản thu, chi của NSNN, vừa giúp tập trung ngân quỹ nhà nước về trung ương, tạo thuận lợi cho việc cải cách công tác quản lý nhà nước.
Tiếp tục ứng dụng có hiệu quả các ứng dụng CNTT vào hoạt động quản trị nội bộ hệ thống theo hướng tập trung hóa, tạo cơ sở để thực hiện các hoạt động quản lý, điều hành trực tuyến, đảm bảo các thông tin chỉ đạo, điều hành, trao đổi… trong nội bộ hệ thống được đầy đủ, nhanh chóng, chính xác và tiết kiệm các chi phí (cả nhân lực và tài chính) cho KBNN.
Trên đây là một số đề xuất mang tính gợi mở về việc cải cách hiện đại hóa các lĩnh vực hoạt động của hệ thống KBNN. Hy vọng rằng những nội dung này sẽ được nghiên cứu, triển khai từng bước theo lộ trình trong thời gian tới, góp phần điện tử hóa các giao dịch trong nội bộ hệ thống KBNN cũng như giữa KBNN với các đơn vị bên ngoài hệ thống; từ đó, góp phần xây dựng và hình thành “Kho bạc điện tử” vào năm 2020 như định hướng Chiến lược phát triển KBNN đã đề ra.