Để phát huy cơ chế tự chủ tài chính tại các trường đại học công lập
Đổi mới cơ chế tài chính theo hướng trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị giáo dục đại học công lập là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với chủ trương, đường lối mở cửa hội nhập của Đảng và Nhà nước ta. Thời gian qua, việc thực hiện cơ chế tự chủ về tài chính của các trường đại học công lập ở Việt Nam đã được triển khai thí điểm và có những kết quả ban đầu, tuy nhiên để phát huy cơ chế này cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa…
Lợi ích của việc thực hiện tự chủ tài chính
Tài chính là một nguồn lực rất quan trọng để thúc đẩy sự phát triển của giáo dục, trong đó có giáo dục đại học. Bởi lẽ, có nguồn lực tài chính, chúng ta mới có cơ sở để phát triển các nguồn lực khác như con người, cơ sở vật chất… những yếu tố quyết định đến chất lượng giáo dục. Giáo dục đại học đòi hỏi nguồn lực tài chính rất lớn.
Ở Việt Nam, các đơn vị giáo dục đại học phụ thuộc vào 3 nguồn thu cơ bản là ngân sách nhà nước và học phí, các nguồn khác như tài trợ, biếu tặng, nghiên cứu khoa học… (các nguồn này không nhiều). Thời gian qua, cơ chế quản lý tài chính đối với giáo dục đại học đã đổi mới cho phù hợp với yêu cầu phát triển. Điều này thể hiện rõ qua Nghị quyết số 35/2009/QH12 ngày 19/6/2009 của Quốc hội khoá XII về chủ trương, định hướng đổi mới một số cơ chế tài chính trong giáo dục và đào tạo từ năm 2010-2011 đến năm học 2014-2015; Nghị định số 49/2009/NĐ-CP quy định về miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập và cơ chế thu, sử dụng học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân từ năm học 2010 - 2011 đến năm học 2014 – 2015… Mới đây là Nghị định số 16/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 14/2/2015 về cơ chế tự chủ cho đơn vị sự nghiệp công lập được đánh giá là có những bước đổi mới mạnh mẽ về cơ chế, chính sách tài chính cho các đơn vị sự nghiệp công lập cũng như các đơn vị giáo dục đại học công lập. Tuy nhiên, đây cũng mới chỉ là “Nghị định khung” chưa có nghị định và các văn bản hướng dẫn, quy định cụ thể cho đơn vị sự nghiệp giáo dục.
Thực hiện chủ trương, chính sách trên thời gian qua đã có nhiều chính sách tài chính liên quan tới giáo dục đại học được sửa đổi và ban hành; Kế hoạch chi tiêu trung hạn trong lĩnh vực giáo dục, trong đó có giáo dục đại học công lập cũng đã được đưa vào áp dụng thí điểm. Các cơ chế, chính sách mới trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính đối với giáo dục đã tạo cơ hội cho giáo dục đại học công lập nâng cao tính chủ động, sáng tạo trong quản lý tài chính và tài sản, sử dụng ngân sách nhà nước tiết kiệm, hiệu quả hơn; Phát triển nguồn thu sự nghiệp thông qua việc đa dạng hoá các hoạt động sự nghiệp và nâng cao chất lượng dịch vụ; Huy động được nhiều nguồn vốn để đầu tư, tăng cường cơ sở vật chất, đổi mới trang thiết bị… thông qua các hoạt động hợp tác liên doanh, liên kết; Khai thác hiệu quả các nguồn thu… từng bước giảm dần sự bao cấp của nhà nước, đồng thời tăng thu nhập cho cán bộ, công chức trong đơn vị.
Bên cạnh đó, chính sách thu học phí cũng có sự đổi mới theo hướng tạo sự chủ động cho các đơn vị giáo dục. Cụ thể, Nghị định số 49/2010/NĐ-CP ngày 14/5/2010 cũng đã phần nào khắc phục hạn chế về mức học phí không phù hợp với mặt bằng giá cả. Chính sách học phí đã xác định trên nguyên tắc chia sẻ chi phí đào tạo giữa nhà nước và người học. Học phí đối với giáo dục đại học công lập chương trình đại trà được căn cứ vào khung quy định của Nhà nước; Đồng thời, có tính đến đặc điểm, yêu cầu phát triển từng ngành, hình thức đào tạo và hoàn cảnh học của sinh viên. Ngay cả cơ chế cấp trực tiếp tiền hỗ trợ miễn, giảm học phí cho các đối tượng được miễn, giảm học phí cũng đã được xem xét chỉnh sửa hợp lý, để các đối tượng này đóng học phí đầy đủ cho nhà trường. Điều này, thể hiện rõ trách nhiệm của Nhà nước về chính sách xã hội, khắc phục hạn chế các đơn vị giáo dục đại học công lập phải thực hiện miễn, giảm học phí như trước đây. Ngoài ra, chính sách cũng đã mở rộng đối tượng được miễn học phí là những sinh viên là người dân tộc thiểu số thuộc hộ có thu nhập tối đa bằng 150% thu nhập của hộ nghèo…
Với việc trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập đã mở ra cơ hội cho các cơ sở giáo dục đại học công lập nâng cao tính chủ động, sáng tạo trong quản lý tài chính và tài sản của đơn vị, sử dụng ngân sách nhà nước được giao tiết kiệm, hiệu quả hơn. Sở dĩ như vậy vì khi thực hiện chế độ giao, khoán mức chi như điện thoại, văn phòng, công tác phí… sẽ giảm đáng kể chứng từ, hóa đơn, các đơn vị sử dụng tiết kiệm các nguồn kinh phí để từ đó góp phần vào việc tăng thu nhập cho giảng viên và cán bộ công nhân viên. Hơn nữa, việc thực hiện cơ chế này còn góp phần sử dụng hiệu quả hơn các nguồn lực.
Khi nguồn thu tăng lên, các trường đại học sẽ có những nguồn lực tài chính để tăng đầu tư cho cơ sở vật chất, trang thiết bị, nguồn nhân lực… để từ đó nâng cao chất lượng giáo dục giáo dục đại học. Với việc trao quyền tự chủ tài chính, các trường đại học sẽ có điều kiện để tăng thu, tiết kiệm chi, có nguồn lực nâng cao đời sống, thu nhập của giảng viên, tạo động lực để họ tích cực lao động nâng cao chất lượng đào tạo.
Một số vướng mắc, tồn tại
Thực tế, nguồn tăng thu của các trường đại học hiện nay vẫn là tăng quy mô đào tạo chứ chưa huy động được nguồn thu từ các hoạt động dịch vụ chuyển giao khoa học công nghệ và dịch vụ tư vấn giáo dục đào tạo theo hợp đồng cho các tổ chức và cá nhân trong nước. Điều này phản ánh chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học của các trường đại học công lập hiện nay chưa cao. Trong khi ở nhiều trường đại học trên thế giới, nguồn thu từ chuyển giao nghiên cứu khoa học khá lớn. Tỷ lệ chi cho con người chiếm phần lớn trong các nguồn chi, trong khi tỷ lệ chi cho cơ sở vật chất chưa tương xứng. Điều này cũng ảnh hưởng đến việc nâng cao chất lượng đào tạo. Các trường đại học được tự chủ về mức chi nhưng tự chủ về thu chưa tương xứng, dẫn tới hiệu quả của việc thực hiện tự chủ không hơn là bao so với không tự chủ.
Trong thời gian dài, do bị khống chế về trần học phí, mức trần học phí thường thấp, thu không đủ chi cho nên một số cơ sở giáo dục đại học công lập xé rào, ban hành nhiều khoản thu ngoài quy định, dẫn đến thiếu công khai, minh bạch trong việc sử dụng nguồn thu. Việc duy trì mức học phí thấp, dẫn đến các cơ sở giáo dục đại học công lập không có đủ nguồn để cải thiện thu nhập cho giảng viên từ nguồn học phí chính quy, không thu hút và giữ được những giảng viên có trình độ tham gia giảng dạy. Để có nguồn bổ sung thu nhập các trường phải khai thác từ các hoạt động đào tạo không chính quy, dẫn đến thời gian đứng lớp của giảng viên đại học phần lớn bị quá tải.
Hầu hết các giảng viên đại học đều vượt định mức giờ giảng theo quy định. Điều này dẫn đến, việc giảng viên đại học không có thời gian để nghiên cứu khoa học, nâng cao trình độ nghiệp vụ, đổi mới nội dung bài giảng, phương pháp sư phạm... Đây cũng là một trong những nguyên nhân ảnh hướng đến chất lượng đào tạo.
Để phát huy hơn nữa cơ chế tự chủ tài chính
Mới đây, Chính phủ đã ban hành Nghị định 16/2015/NĐ-CP với những quy định về cơ chế tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng cải tiến mạnh mẽ, trong đó các đơn vị giáo dục đại học công lập cũng được hưởng những chính sách đổi mới này. Cụ thể, nhằm khuyến khích các đơn vị sự nghiệp vươn lên tự chủ tài chính mức cao hơn, Nghị định quy định theo nguyên tắc: Đơn vị tự chủ cao về nguồn tài chính thì được tự chủ cao về quản lý, sử dụng các kết quả tài chính và ngược lại (đi kèm theo đó là tự chủ về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự). Mặt khác, quy định các mức độ tự chủ tài chính như: Tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư; Tự bảo đảm chi thường xuyên; Tự bảo đảm một phần chi thường xuyên (do giá, phí dịch vụ sự nghiệp công chưa kết cấu đủ chi phí) và được Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên (theo quy định không có nguồn thu hoặc nguồn thu thấp, chẳng hạn các trường tiểu học).
Bên cạnh đó, các đơn vị được chủ động sử dụng các nguồn tài chính được giao tự chủ, bao gồm nguồn thu từ hoạt động dịch vụ sự nghiệp công (kể cả nguồn ngân sách nhà nước đấu thầu, đặt hàng), nguồn thu phí theo quy định được để lại chi và nguồn thu hợp pháp khác, để chi thường xuyên. Để khuyến khích các đơn vị tự chủ toàn diện về chi thường xuyên và chi đầu tư, Nghị định quy định căn cứ nhu cầu đầu tư và khả năng cân đối tài chính, các đơn vị chủ động xây dựng danh mục các dự án đầu tư, báo cáo cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Trên cơ sở danh mục dự án đầu tư đã được phê duyệt, đơn vị quyết định dự án đầu tư, bao gồm các nội dung về quy mô, phương án xây dựng, tổng mức vốn, nguồn vốn, phân kỳ thời gian triển khai theo quy định của pháp luật về đầu tư. Đặc biệt, các đơn vị sự nghiệp công được vay vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước hoặc được hỗ trợ lãi suất cho các dự án đầu tư sử dụng vốn vay của các tổ chức tín dụng theo quy định. Căn cứ yêu cầu phát triển của đơn vị, Nhà nước xem xét bố trí vốn cho các dự án đầu tư đang triển khai, các dự án đầu tư khác theo quyết định của cấp có thẩm quyền.
Trong cơ chế chính sách tiền lương cũng có những đổi mới bằng quy định, đơn vị sự nghiệp chi trả tiền lương theo ngạch, bậc, chức vụ và các khoản phụ cấp do Nhà nước quy định đối với đơn vị sự nghiệp công. Khi Nhà nước điều chỉnh tiền lương cơ sở, đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư và đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên phải tự bảo đảm tiền lương tăng thêm từ nguồn thu của đơn vị; NSNN không cấp bổ sung.
Bên cạnh đổi mới trên, thực tế hoạt động cho thấy, ngoài việc phát huy tốt các cơ chế chính sách mới cần tiếp tục triển khai thực hiện đổi mới một số vấn đề sau:
Một là, sớm ban hành Nghị định và các văn bản quy định hướng dẫn cụ thể về cơ chế tự chủ đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập theo tinh thần Nghị định 16/2015/NĐ-CP;
Hai là, cần trao nhiều quyền tự chủ về mức thu cho các trường đại học công lập, trước hết là thu học phí, lệ phí nhiều hơn nữa. Các cơ sở giáo dục đại học công lập được phép tính đủ chi phí tiền lương và chi phí hoạt động thường xuyên trong giá dịch vụ của đơn vị sự nghiệp công lập trên cơ sở khung giá do Nhà nước quy định, chi phí khấu hao tài sản cố định trong học phí của cơ sở giáo dục đại học công lập, đảm bảo nguyên tắc lấy thu đủ bù đắp chi phí đào tạo trong học phí. Tuy nhiên, cơ chế này cần đảm bảo hỗ trợ đối với người nghèo, người dân tộc thiểu số, người ở vùng sâu, vùng xa về mức học phí… tạo điều kiện cho mọi người đều được tiếp cận giáo dục đại học.
Ba là, bên cạnh việc giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm tài chính cho các trường đại học cần quan tâm đến công tác quản lý nhà nước, nhất là công tác kiểm tra, giám sát, yêu cầu tính công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình của các trường đảm bảo hoạt động theo đúng luật pháp.
Bốn là, đổi mới phương pháp phân bổ kinh phí ngân sách nhà nước cho các cơ sở giáo dục đại học theo kết quả đầu ra; giao ngân sách gắn với nhiệm vụ và sản phẩm cuối cùng. Nhà nước giao ngân sách gắn với các hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật trong đào tạo, định mức phân bổ chi phí đào tạo, có sự phân biệt giữa cơ sở hoạt động có chất lượng hiệu quả với cơ sở kém chất lượng, không hiệu quả. Tiến tới, Nhà nước sẽ thực hiện cơ chế đặt hàng đối với đào tạo đại học. Tất cả các cơ sở giáo dục đại học đều được tham gia vào quy trình tuyển chọn kinh phí đặt hàng đào tạo từ ngân sách nhà nước.
Năm là, ngoài tự chủ về tài chính của các cơ sở giáo dục đại học công lập cần thực hiện đồng bộ với tự chủ trên các lĩnh vực khác như tự chủ trong tuyển sinh và tuyển dụng.
Đổi mới cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập nói chung và các cơ sở giáo dục đại học công lập nói riêng là vấn đề phức tạp, nhạy cảm và tác động đến đại đa số nhân dân. Do đó, bên cạnh các cơ chế chính sách phù hợp cần phải có quyết tâm chính trị cao của các cấp, các ngành. Các cơ quan chức năng ở các cấp cần tham mưu cho cấp ủy đảng trong việc ban hành và triển khai các nghị quyết, chủ trương, kế hoạch và biện pháp cụ thể nhằm tạo chuyển biến về tư tưởng, nâng cao nhận thức của xã hội về sự cần thiết, tính cấp bách của việc đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập; Đẩy mạnh việc khuyến khích thu hút các thành phần kinh tế đầu tư phát triển dịch vụ sự nghiệp công để hướng tới việc cung cấp tốt hơn dịch vụ cho mọi tầng lớp nhân dân, bảo đảm cho các đối tượng chính sách xã hội và người nghèo được tiếp cận, thụ hưởng các dịch vụ cơ bản thiết yếu với chất lượng cao hơn.
Tài liệu tham khảo:
1. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo…;
2. Nghị quyết số 35/2009/QH12 ngày 19/6/2009 của Quốc hội khoá XII về chủ trương, định hướng đổi mới một số cơ chế tài chính trong giáo dục và đào tạo từ năm 2010-2011 đến năm học 2014-2015;
3. TS. Nguyễn Trường Giang: Đổi mới cơ chế tài chính góp phần cải cách giáo dục đại học (Hội thảo Cải cách giáo dục đại học VED 2014);
4. Trịnh Xuân Thắng: “Tự chủ đại học nhìn từ góc độ tự chủ tài chính ở các trường công lập”;
5. Nghị định 43/2006/NĐ-CP; Nghị định số 49/2009/NĐ-CP; Nghị định 16/2015/NĐ-CP…