Đổi mới cơ chế quản lý tài chính dạy nghề

ThS. TRƯƠNG ANH DŨNG - Tổng cục Dạy nghề

(Tài chính) Trong điều kiện quản lý nền kinh tế theo cơ chế thị trường, dạy nghề không chỉ còn là hoạt động mang tính xã hội thuần túy mà nó đã trở thành một loại hàng hóa công cộng đặc biệt. Vì vậy, muốn đảm bảo thỏa mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng hàng hóa công cộng thì nhất thiết phải có nguồn lực tài chính để “sản xuất và cung ứng” ra nó.

Nhiều chính sách, chế độ chi ngân sách cho dạy nghề còn có tính chất tình thế, thụ động. Nguồn: internet
Nhiều chính sách, chế độ chi ngân sách cho dạy nghề còn có tính chất tình thế, thụ động. Nguồn: internet
Thực trạng cơ chế quản lý tài chính dạy nghề

Trong những năm qua, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, dạy nghề đã được phục hồi, từng bước được đổi mới và phát triển, quy mô dạy nghề theo đó được mở rộng, chất lượng dạy nghề từng bước được nâng cao, đa dạng hoá các loại hình, hình thức đào tạo. Cụ thể, cơ chế quản lý dạy nghề bước đầu điều chỉnh cơ cấu trình độ đào tạo, đổi mới nội dung chương trình, phương pháp đào tạo, nâng cấp cơ sở vật chất; Chất lượng dạy nghề cũng đã chuyển biến tích cực, từng bước đáp ứng được yêu cầu đội ngũ lao động qua đào tạo nghề phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội và xuất khẩu lao động.

Tuy nhiên, dạy nghề vẫn còn có những yếu kém nội tại, đơn cử như quy mô đào tạo nghề còn nhỏ, nhất là đào tạo nghề trình độ cao; Dạy nghề chủ yếu vẫn theo hướng cung, chất lượng dạy nghề còn thấp chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thị trường lao động; Cơ cấu ngành, nghề đào tạo chưa phù hợp với cơ cấu ngành nghề của thị trường lao động, chưa đáp ứng được nhu cầu lao động qua đào tạo nghề cho các ngành kinh tế mũi nhọn, ngành kinh tế trọng điểm....

Một trong những nguyên nhân dẫn tới những yếu kém trên, đó là do cơ chế quản lý tài chính dạy nghề nước ta trong thời gian qua còn bộc lộ nhiều điểm bất cập và chưa đáp ứng được yêu cầu cả về quy mô đầu tư lẫn công tác quản lý, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sử dụng tài chính và yêu cầu phát triển dạy nghề. Biểu hiện ở các mặt sau:

- Cơ quan quản lý nhà nước không nắm được tài chính đầu tư cho toàn ngành dạy nghề

Theo chức năng quản lý nhà nước thì Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐTBXH) phải phối hợp cùng với Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tham gia phân bổ ngân sách cho dạy nghề. Tuy nhiên trên thực tế, thời gian qua Bộ LĐTBXH mới chỉ được tham gia trong quá trình lập dự toán, phân bổ dự toán ngân sách đối với vốn Chương trình mục tiêu quốc gia cho lĩnh vực này. Trong khi, ở các địa phương, do cơ chế quản lý nhà nước đối với thu chi ngân sách dạy nghề ở các tỉnh, thành phố không thống nhất nên nhiều cơ quan quản lý dạy nghề địa phương lại không tổng hợp được ngân sách cho dạy nghề trên địa bàn.

- Tính gắn kết với mục tiêu thấp

Do quản lý tài chính đầu tư theo kiểu truyền thống, không gắn kết việc cấp phát ngân sách với việc thực hiện các mục tiêu dạy nghề nên dẫn đến hiệu quả thấp; Trách nhiệm giải trình trong quản lý và sử dụng ngân sách không cụ thể. Bộ Tài chính, Chính phủ và các nhà quản lý nguồn lực chỉ công bố được số chi ngân sách cho dạy nghề mà không nêu bật được việc phân bổ và hiệu quả mà nguồn lực đó đã mang lại như thế nào đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.

- Tầm nhìn ngắn hạn và thiếu chủ động

Xây dựng dự toán và quản lý tài chính đầu tư cho dạy nghề như hiện nay chỉ quan tâm đến lợi ích trước mắt, từng năm một, chưa có tầm nhìn trung hạn, bị chi phối quá nhiều bởi nguyên tắc quản lý ngân sách theo niên độ. Chính vì chưa có dự toán trung hạn nên không chỉ có Bộ Tài chính bị động về nguồn thu ngân sách mà các bộ và đơn vị sử dụng tài chính đầu tư cho dạy nghề cũng bị động về nguồn lực.

- Bất cập ngay từ khâu chuẩn bị xây dựng dự toán

Việc lập kế hoạch, phân bổ vốn và giao kế hoạch nhìn chung còn chậm, chưa đảm bảo thời gian theo quy định; Quản lý tài chính đầu tư cho dạy nghề hiện nay chủ yếu dựa trên cơ sở nguồn lực đầu vào. Trong quá trình lập dự toán tài chính đầu tư cho dạy nghề hàng năm, việc thương thuyết ngay từ khi chuẩn bị, soạn thảo đến trình duyệt, điều chỉnh ngân sách thường phức tạp và kéo dài giữa các bên. Do đó, việc thảo luận lập dự toán ngân sách thường kéo dài, khó có sức thuyết phục và thường được kết thúc bằng việc thỏa hiệp giữa các bên, bỏ rơi việc xem xét dự toán có hiệu quả hay không.

- Phân bố dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm

Thông thường, bố trí trên cơ sở nguồn lực hiện có không thể thực sự triển khai được ý đồ chiến lược. Trong khi, một số bộ, ngành, địa phương lại phân bổ kinh phí còn dàn trải, không đúng đối tượng, nội dung theo hướng dẫn của Bộ LĐTBXH như giảm mức kinh phí hoặc không phân bổ kinh phí cho các cơ sở dạy nghề được lựa chọn để đầu tư theo quyết định của Bộ LĐTBXH mà phân bổ cho các cơ sở dạy nghề khác, dẫn đến hiệu quả thấp.

- Công tác soạn thảo chính sách, chế độ còn nặng về tính lý thuyết, chủ trương, chưa gắn kết với thực tế chi tiêu của đơn vị cơ sở

Nhiều chính sách, chế độ chi ngân sách cho dạy nghề còn có tính chất tình thế, thụ động, chưa đi tắt, đón đầu được các hoạt động dạy nghề; Chưa tạo ra sự tự chủ cao đối với các cơ sở dạy nghề; Chưa tạo động lực và điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân sử dụng nguồn ngân sách. Chưa kể cùng với thời gian, các văn bản chế độ thường bị lạc hậu so với diễn biến kinh tế - xã hội... Tình hình đó đặt các đơn vị sử dụng ngân sách trước tình thế khó khăn: Hoặc phải chi vượt định mức; Hoặc không thể hoàn thành công việc được giao; Hoặc phải lập dự toán cao hơn để bù trừ vào chỗ thiếu hụt sau này...

- Hạn chế trong quản lý tài chính đầu tư cho sự nghiệp dạy nghề

Thông tin tài chính mặc dù đã thực hiện công khai nhưng trên thực tế cũng mới chỉ thực hiện ở cấp độ bên trong các cơ quan nhà nước (đối nội), còn công khai ra bên ngoài (đối ngoại) còn rất hạn chế. Đây là những điểm rất bất cập, là một trong những nguyên nhân làm chậm sự phát triển của sự nghiệp dạy nghề, đặc biệt là trong điều kiện Việt Nam đang từng bước thực hiện đổi mới cơ chế tài chính, thực hiện các nhiệm vụ dạy nghề trong tình hình mới.

Giải pháp đổi mới cơ chếquản lýtài chính dạy nghề

Để thực hiện thành công mục tiêu của Chiến lược phát triển dạy nghề thời kỳ 2011-2020, cơ chế quản lý tài chính dạy nghề cần phải đổi mới mạnh mẽ trên các mặt sau đây:

Thứ nhất, sửa đổi, bổsung những quy định về tài chính dạy nghề trong các văn bản pháp lý cao nhất có liên quan như Luật Dạy nghề, Luật Ngân sách Nhà nước (NSNN).

Đối với Luật Dạy nghề, cần có Điều khoản cụ thể về đầu tư cho dạy nghề theo hướng cụ thể hóa quy định cho phù hợp với tính chất, đặc điểm riêng có của lĩnh vực dạy nghề. Đối với Luật NSNN, cần sửa đổi bổ sung quy định cụ thểvai trò, trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành ởTrung ương và địa phương trong việc tham gia vào quá trình xây dựng, tổng hợp, phân bổ, giám sát ngân sách dạy nghề. Đồng thời, cần có quy định loại chi riêng cho lĩnh vực dạy nghề trong Mục lục NSNN.

Thứ hai, đổi mới cơ chế, chính sách huy động nguồn lực tài chính đầu tư cho dạy nghề.

Đối với nguồn lực tài chính từ NSNN, dạy nghề với đặc thù là đầu tư lớn về cơ sở vật chất thiết bị, chi phí tốn kém, hơn nữa NSNN vẫn phải đóng vai trò chủ đạo trong các nguồn lực tài chính cho dạy nghề để thực hiện được mục tiêu đổi mới và phát triển dạy nghề... Với đặc điểm quản lý đó, cần quy định rõ tỷ lệ ngân sách chi cho dạy nghề trong tổng chi ngân sách cho giáo dục đào tạo để các cơ quan quản lý có cơ sở để xây dựng và bảo vệ kế hoạch ngân sách dạy nghề hàng năm, qua đó đảm bảo được chất lượng và hiệu quả đào tạo nghề. Đối với nguồn thu học phí, cơ chế thị trường yêu cầu giá cả cần tuân thủ các quy luật của kinh tế thị trường như quy luật trao đổi ngang giá, quy luật cung cầu…

Cơ chế học phí học nghề cần phải được đổi mới theo nguyên tắc mức học phí phải được xây dựng dựa trên cơ sở tính đủ giá dịch vụ dạy nghề theo từng trình độ, ngành nghề đào tạo. Việc xây dựng giá dịch vụ đào tạo nghề phải đặt trong mối quan hệ tổng thể giữa các yếu tố ảnh hưởng đến giá dịch vụ dạy nghề, bao gồm chi phí đào tạo thực tế hợp lý; Chi phí xã hội nói chung trong quá trình đào tạo một học sinh, sinh viên học nghề...

Về nguồn đầu tư, tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Nhà nước có chính sách khuyến khích, để huy động tối đa sự tham gia của doanh nghiệp (DN), làng nghề trong việc phát triển dạy nghề dưới các hình thức như tổ chức đào tạo tại DN, đầu tư cơ sở dạy nghề; Liên kết với các cơ sở dạy nghề để học sinh được thực tập nghề trong thực tiễn sản xuất; DN đóng góp kinh phí vào Quỹ hỗ trợ đào tạo nghề khi tiếp nhận lao động qua đào tạo nghề vào làm việc trong DN.

Nhà nước cũng cần có chính sách tăng cường hợp tác quốc tế về dạy nghề, sớm ban hành thông tư hướng dẫn vềtài chính, kế toán, kiểm toán và thuế đối với hợp tác, đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo và dạy nghề nhằm tạo hành lang pháp lý thuận lợi để thu hút các nhà đầu tư, các DN nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực này.

Thứ ba, đổi mới cơ chế phân bổ tài chính dạy nghề.

Đổi mới nên theo hướng: Thể chế hóa và công khai hóa việc đổi mới quy trình phân bổ tài chính đầu tư cho dạy nghề; Hoàn thiện hệ thống định mức phân bổ tài chính đầu tư cho dạy nghề phù hợp, tiến tới tăng quyền hạn gắn chặt với trách nhiệm tự chủ tài chính của các đơn vị sử dụng ngân sách và các nguồn lực công; Chuyển phương thức đầu tư từ đầu tư tập trung theo trường trọng điểm sang đầu tư tập trung theo nghề đào tạo trọng điểm, mũi nhọn.

Bên cạnh đó, ưu tiên phân bổ tài chính đầu tư cho dạy nghề để đáp ứng yêu cầu mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng dạy nghề, đặc biệt là vốn đầu tư để phát triển các trường tiếp cận trình độ quốc tế, khu vực, trường trọng điểm chất lượng cao. Đồng thời, đảm bảo kinh phí cho dạy nghề trình độ cao đẳng, trung cấp theo chỉ tiêu hàng năm; Đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, trong đó ưu tiên những tỉnh khó khăn, như Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao, vùng căn cứ địa cách mạng; Chú trọng đầu tư cho các điều kiện đảm bảo chất lượng dạy nghề; Phân bổ tài chính chi thường xuyên phải căn cứ vào mức chi phí đào tạo cho từng nhóm nghề ở từng cấp trình độ đào tạo.

Thứ tư, đổi mới cơ chế sử dụng tài chính dạy nghề.

Từng bước chuyển cơ chế cấp phát và quản lý tài chính dạy nghề theo "đầu vào" hiện nay sang cơ chế cấp phát và quản lý theo "đầu ra", cụ thể là mở rộng cơ chế đặt hàng dạy nghề đối với những nghề đặc thù, ưu tiên người học là đối tượng chính sách, người có công, người nghèo, người dân tộc thiểu số... ; tiến tới thực hiện cơ chế đấu thầu chỉ tiêu đào tạo do nhà nước đặt hàng đối với những cơ sở dạy nghề đã được kiểm định chất lượng, đủ điều kiện tham gia đào tạo.

Thực hiện quản lý tài chính dạy nghề theo trung hạn 3 năm thay vì 1 năm như hiện nay. Nhà nước và cơ sở dạy nghề cần chủ động xác định được nguồn lực tài chính trong khoảng thời gian trung hạn; Đảm bảo được tính nhất quán của việc phân bổ và cấp phát tài chính dạy nghề, gắn chi tiêu tài chính với kết quả đầu ra của dạy nghề. Bên cạnh đó, xây dựng bộ tiêu chí và quy trình đánh giá hiệu quả tài chính đầu tư cho dạy nghề để làm căn cứ đánh giá hiệu quả tài chính đầu tư cho dạy nghề.

Thứ năm, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản lý tài chính dạy nghề.

Năng lực của đội ngũ cán bộ kế toán - tài chính sẽ quyết định chất lượng, hiệu quả công tác hạch toán kế toán và quản lý tài chính. Vì vậy, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ kế toán - tài chính là yêu cầu tất yếu đối với bất kỳ một đơn vị nào. Để thực hiện được mục tiêu đó, cơ quan quản lý về dạy nghề cần hướng dẫn các cơ sở dạy nghề xây dựng tiêu chuẩn cán bộ, tiêu chuẩn nghiệp vụ đối với đội ngũ cán bộ kế toán - tài chính trong lĩnh vực dạy nghề; Thường xuyên mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng về các chế độ, chính sách mới về quản lý tài chính, về các định mức chi tiêu tài chính. Về phía các cơ sở dạy nghề cần tạo điều kiện cho cán bộ làm công tác kế toán - tài chính được tham dự các khoá học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn trong và ngoài nước khi có cơ hội...

Thứ sáu, cải thiện tính minh bạch và công khai tài chính dạy nghề.

Yêu cầu này được xem là cơ sở thiết yếu cho cải tiến công tác quản lý tài chính hiệu quả, hiệu lực bởi thông tin đầy đủ và tin cậy hơn sẽ giúp Chính phủ kiểm soát tình hình chuẩn xác hơn và giúp các nhà hoạch định chính sách nắm chắc thực tế và từ đó đề ra được các chính sách có cơ sở vững chắc và khả thi hơn, đảm bảo môi trường chính sách ít thay đổi hơn, các chính sách tài chính có thể đáp ứng kịp thời và tốt hơn các vấn đề tài chính dạy nghề phát sinh.

Các biện pháp chính để tiếp tục cải thiện tính minh bạch công khai tài chính là: Phân định rõ vai trò và trách nhiệm giữa các cấp quản lý nguồn tài chính dạy nghề nhằm tạo cơ sở cho cho sự minh bạch trong báo cáo tài chính và trách nhiệm giải trình giữa các cơ quan, qua đó cho phép phản ánh đúng thực trạng của ngân sách và sẽ tạo điều kiện phân bổ ngân sách dạy nghề công bằng hơn, hiệu quả hơn.

Cuối cùng là tiếp tục nâng cao năng lực của cả bộ máy quản lý nhà nước cũng như trình độ cán bộ ở tất cả các cấp kể cả việc nhận thức về tầm quan trọng của minh bạch tài chính dạy nghề là nhằm quản lý các mục tiêu phát triển dạy nghề tốt hơn, chống lãng phí, tham nhũng.

Bài đăng trên Tạp chí Tài chính số 3 - 2014