Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam
Ngành công nghiệp chế biến gỗ của Việt Nam đã đạt được nhiều thay đổi tích cực trong những năm qua, sản lượng và chất lượng sản phẩm tăng cao, được tiêu thụ rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội mang lại từ hội nhập, ngành chế biến gỗ và lâm sản Việt Nam hiện đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt là sức ép cạnh tranh từ Trung Quốc, Đài Loan và các nước trong khu vực… Làm thế nào để nâng cao năng lực cạnh tranh của các sản phẩm gỗ xuất khẩu là vấn đề đang đặt ra.
Cơ hội và thách thức của ngành chế biến gỗ, lâm sản xuất khẩu hiện nay
Ngành chế biến gỗ, lâm sản Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, với kim ngạch xuất khẩu luôn tăng trưởng cao, trung bình hàng năm đạt từ 6-7 tỷ USD. Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam trong tháng 3/2017 đạt mức cao kỷ lục so với cùng kỳ những năm trước, đạt trên 713 triệu USD, tăng tới 57% so với tháng trước đó và tăng 22,31% với tháng 3/2016.
Trong đó, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ đạt trên 518 triệu USD, tăng 66,4% so với tháng 02/2016 và tăng 22% so với cùng kỳ năm 2016. Tính chung quý I/2017, kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam đạt 1,78 tỷ USD, tăng tới 17,1% so với cùng kỳ năm 2016. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ đạt 1,29 tỷ USD, tăng 14,3% so với cùng kỳ năm 2016, chiếm 72,64% tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của cả nước…
Với xu hướng này, xuất khẩu gỗ năm 2017 của Việt Nam dự kiến có thể đạt tới 8 tỷ USD, tăng hơn so với cả mục tiêu đề ra là 7,5 tỷ USD. Đây là một dấu mốc quan trọng góp phần giúp ngành chế biến gỗ, lâm sản Việt Nam đạt mục tiêu xuất khẩu 10 tỷ USD gỗ trước năm 2020.
Hoạt động xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ tăng nhanh là do thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách tạo điều kiện thuận lợi, tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế cùng tham gia cạnh tranh, phát triển lành mạnh. Hơn nữa, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với mục tiêu đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 đã tạo điều kiện cho các ngành công nghiệp phát triển.
Đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập và mở cửa nền kinh tế đã tạo điều kiện mở rộng thị trường, tăng giá trị xuất khẩu, khuyến khích các ngành công nghiệp phát triển, trong đó có ngành công nghiệp chế biến gỗ. Trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến nay, ngành công nghiệp chế biến gỗ của Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng sản phẩm góp phần tạo nguồn thu nhập cho đất nước nói chung và tạo công ăn việc làm cho người dân nói riêng.
Cùng với sự phát triển của nên kinh tế đất nước, thực hiện Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006-2020 (được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 18/2007/QĐ-TTg ngày 05/02/2007), ngành chế biến và xuất khẩu gỗ đã đạt được những thành tựu to lớn cả về số lượng, chất lượng doanh nghiệp chế biến, về kim ngạch xuất khẩu và về thị trường tiêu thụ sản phẩm...
Các sản phẩm gỗ chế biến ngày càng trở nên đa dạng hơn, có mẫu mã và chất lượng sản phẩm ngày càng phù hợp hơn với cả thị trường trong nước và xuất khẩu. Từ chỗ chỉ tập trung để tái xuất khẩu sang một nước thứ ba, đến nay các sản phẩm gỗ chế biến của Việt Nam đã có mặt ổn định ở trên 120-150 nước và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới với nhiều doanh nghiệp trực tiếp xuất khẩu sang các thị trường dành cho người tiêu dùng. Ngay cả các thị trường khó tính nhất, đòi hỏi chất lượng cao như: Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc… hiện cũng chiếm tỷ trọng hơn 50% kim ngạch xuất khẩu mặt hàng đồ gỗ của Việt Nam.
Thống kê cho thấy, trong 3 tháng đầu năm 2017, Hoa Kỳ liên tục duy trì là thị trường xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ lớn nhất của Việt Nam trong quý I/2017, đạt trên 691 triệu USD, tăng 15,96% so với cùng kỳ năm ngoái, chiếm 39% tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của cả nước. Bên cạnh đó, kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ sang hầu hết các thị trường chủ lực khác như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức, Australia đều tăng so với cùng kỳ năm 2016…
Nhu cầu của thị trường thế giới về gỗ và sản phẩm gỗ có giá trị cao cũng là một nhân tố quan trọng để nâng cao giá trị xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ Việt Nam. Theo số liệu sơ bộ của Trung tâm Nghiên cứu các ngành công nghiệp (CSIL), giá trị tiêu thụ đồ gỗ toàn cầu hiện nay hơn 460 tỷ USD/năm và Việt Nam chỉ chiếm 1,65% trong số này, có nghĩa là có khoảng trống đáng kể cho các doanh nghiệp Việt Nam tăng thị phần của mình.
Nghiên cứu thị trường cho thấy, Trung Quốc tuy là nhà cung cấp các sản phẩm gỗ lớn nhất trên thế giới, chiếm 37% tổng lượng tiêu thụ của thế giới nhưng thời gian gần đây Chính phủ Trung Quốc đã cắt giảm 9% tổng lượng gỗ khai thác, tương đương 40 triệu m3 gỗ. Điều này mở ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu sang Trung Quốc.
Thêm vào đó, một loạt các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đã và đang tiến hành ký kết cũng sẽ tạo cơ hội xuất khẩu lớn hơn cho các doanh nghiệp trong nước. Việc Việt Nam - Hàn Quốc ký kết Hiệp định thương mại tự do với Việt Nam đã giúp cho doanh thu gỗ nước ta tăng 16,6% và xuất khẩu gỗ sang nước này đạt 143,84 triệu USD. Theo Văn phòng Xúc tiến thương mại tại Hàn Quốc, nếu loại bỏ nguyên liệu thô không rõ nguồn gốc xuất khẩu trong các sản phẩm xuất khẩu, thì ngành gỗ Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội mở rộng và phát triển thị trường tại Hàn Quốc.
Liên minh châu Âu (EU) cũng là thị trường xuất khẩu đồ gỗ lớn thứ 4 của Việt Nam, đạt hơn 740 triệu USD trong năm 2016. Trong năm 2017, triển vọng phát triển ngành gỗ và thủ công mỹ nghệ tại thị trường EU được dự báo tăng trưởng khả quan hơn nhờ tác động của Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) dự kiến có hiệu lực vào đầu năm 2018 và Hiệp định đối tác tự nguyện về thực thi lâm luật, quản trị rừng, thương mại gỗ và sản phẩm gỗ (VPA/FLEGT) vừa được Việt Nam và EU ký tắt vào tháng 5/2017.
EVFTA và VPA/FLEGT chính là nền tảng để các doanh nghiệp Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu, gia tăng giá trị trao đổi thương mại đối với các mặt hàng chủ lực, trong đó có gỗ và các sản phẩm gỗ. Theo đó, thuế nhập khẩu ván ép và các sản phẩm tương tự sẽ loại bỏ thuế quan trong 3 - 5 năm; sản phẩm nội ngoại thất, mức thuế từ 2,7 - 5,7% hiện nay cũng sẽ được xóa bỏ ngay khi EVFTA có hiệu lực.
Việc các nhà nhập khẩu lớn của thế giới chuyển hướng chiến lược đa dạng hoá thị trường nhập khẩu đồ gỗ, thay vì chỉ phụ thuộc vào một số thị trường quen thuộc trước đây cũng đang mở ra những cơ hội và tiềm năng phát triển rất lớn cho ngành chế biến gỗ Việt Nam. Theo dự báo, Việt Nam có cơ hội lớn để mở rộng thị trường gỗ và các sản phẩm gỗ trên thế giới. Nếu có giải pháp đúng và chính sách hỗ trợ hiệu quả thì các doanh nghiệp có thể xuất khẩu đạt từ 15 đến 20 tỷ USD trong 10 năm tới.
Bên cạnh những lợi thế và thuận lợi, ngành chế biến gỗ, lâm sản Việt Nam hiện đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Cụ thể là xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ tiềm năng tuy lớn nhưng sức ép cạnh tranh đang ngày càng gia tăng, đặc biệt từ phía Trung Quốc, Đài Loan và các nước trong khu vực như Indonesia, Malaysia…
Vì chất lượng và mẫu mã sản phẩm đồ gỗ Việt Nam còn hạn chế, chưa thật phong phú, đa dạng, do vậy còn thiếu sức cạnh tranh. Nhiều năm qua, ngành chế biến gỗ, lâm sản mặc dù phát triển nhanh nhưng không bền vững. Tăng trưởng của ngành này chủ yếu dựa vào xuất khẩu nhưng phần lớn lại chỉ là gia công, phụ thuộc nhiều vào sự đặt hàng và thiết kế mẫu mã từ khách hàng nước ngoài.
Hiện nay, chỉ một số ít doanh nghiệp có thể chủ động đầu tư công nghệ, thiết bị và có khả năng tự sản xuất theo thiết kế, tìm kiếm thị trường tiêu thụ, nâng cao giá trị gia tăng. Còn lại hầu hết các cơ sở chế biến quy mô nhỏ, siêu nhỏ như hộ gia đình, hợp tác xã, tổ hợp tác, làng nghề… thường có công nghệ thiết bị lạc hậu, khả năng quản lý hạn chế, thiếu chiến lược kinh doanh… nên sản phẩm làm ra có giá thành cao làm giảm năng lực canh tranh.
Thách thức nữa mà các doanh nghiệp chế biến gỗ, lâm sản Việt Nam sẽ phải đương đầu trong thời gian tới, đó là phải ổn định nguồn nguyên liệu gỗ. Phần lớn nguyên liệu gỗ để chế biến phải nhập khẩu do Chính phủ cho phép khai thác rừng tự nhiên còn rất hạn chế. Thống kê sản lượng nguồn gỗ rừng trồng trong nước khai thác hằng năm hiện khoảng 20 triệu m3, trong đó có khoảng 80% nguồn gỗ này là gỗ có đường kính nhỏ được sử dụng làm nguyên liệu. Phần còn lại 20% được sử dụng sản xuất các sản phẩm đồ gỗ chủ yếu phục vụ xuất khẩu.
Để có được nguồn nguyên liệu gỗ hợp pháp ổn định, bắt buộc phải triển khai đẩy mạnh các mô hình liên kết trồng rừng giữa các công ty chế biến gỗ xuất khẩu và các hộ trồng rừng. Thời gian qua, mô hình này mặc dù đã được hình thành và đã có bước phát triển đáng kể, song vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu cũng như mang lại hiệu quả cao. Các mô hình liên kết trồng rừng giữa các công ty và hộ trồng rừng vẫn còn mang tính chất tự phát, được hình thành chủ yếu do nhu cầu kết nối của công ty và hộ trồng rừng.
Vấn đề truy xuất nguồn gốc gỗ và các trách nhiệm xã hội hiện nay cũng đang gây nên những vướng mắc lớn cho doanh nghiệp. Từ trước đến nay, các doanh nghiệp chế biến gỗ và sản phẩm từ gỗ của Việt Nam chỉ tập trung vào việc sản xuất tại xưởng mà chưa chú ý đến quy trình quản lý cũng như kiểm soát nguồn gốc, tính hợp pháp của nguyên liệu cũng như các yếu tố về đời sống của người lao động. Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp chế biến gỗ hiện nay còn thấp, tính hợp tác và liên kết lỏng lẻo.
Thị trường trong nước thiếu kênh phân phối, đang bị mất dần thị trường ở một số địa bàn quan trọng. Thực tế cho thấy, khi hội nhập sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu, đặc biệt là đối với thị trường EU, doanh nghiệp Việt Nam đang gặp nhiều áp lực trong việc thực hiện các quy định về chứng minh nguồn gốc xuất xứ gỗ cũng như các tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội, sự thân thiện với môi trường. Trong khi đó, doanh nghiệp xuất khẩu đồ gỗ nước ta chưa biết phải đến cơ quan, tổ chức nào để xin cấp các chứng nhận về nguồn gốc gỗ hay những tiêu chuẩn nào có thể đáp ứng được tiêu chí về môi trường, điều kiện làm việc cho người lao động.
Sự thay đổi trong lựa chọn sản phẩm đồ gỗ chế biến của người tiêu dùng châu Âu cũng đặt ra những thách thức lớn đối với doanh nghiệp xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ Việt Nam. Dự báo thời gian tới, người tiêu dùng EU có thể có xu hướng chuyển qua sử dụng các sản phẩm thân thiện môi trường, nhưng lại không sẵn sàng chi trả nhiều tiền.
Điều này khiến doanh nghiệp chế biến gỗ của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU không chỉ đối mặt với sự cạnh tranh của các doanh nghiệp từ các nước trong khu vực Đông Nam Á, Trung Quốc, Ấn Độ mà còn chịu sức ép từ các khu vực sản xuất đồ gỗ mới nổi như: Đông Âu, châu Phi... trong việc ứng dụng công nghệ để tạo ra sản phẩm giá trị gia tăng.
Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam
Mặc dù có những biến động về thị trường, song theo đánh giá chung, trong hơn 10 năm trở lại đây, ngành đồ gỗ của Việt Nam đã đạt được nhiều thành tích, đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gỗ lớn nhất Đông Nam Á và đồ gỗ là một trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.
Tuy nhiên, để ngành chế biến gỗ, lâm sản Việt Nam có thể mở rộng thị phần xuất khẩu hơn nữa, Nhà nước cần hoàn thiện chính sách hỗ trợ khuyến khích xuất khẩu, thực hiện chế độ khen thưởng đối với các doanh nghiệp xuất khẩu có hiệu quả, chấp hành tốt pháp luật hải quan; Xây dựng chương trình xúc tiến thương mại, mở rộng hợp tác quốc tế để tiếp cận được với công nghệ hiện đại; Nghiên cứu, đánh giá xu hướng thị trường, tìm kiếm đối tác theo hướng hỗ trợ tối đa cho các doanh nghiệp tham gia hội chợ, diễn đàn thương mại gỗ quốc tế và trong nước. Nghĩa là, bên cạnh việc nghiên cứu mở rộng thị trường, cần duy trì và phát triển các thị trường truyền thống (cả thị trường trung chuyển và thị trường người tiêu dùng trực tiếp), thông qua đó uy tín và chất lượng của sản phẩm gỗ xuất khẩu Việt Nam sẽ tiếp cận nhanh hơn tới người tiêu dùng.
Quan trọng hơn, muốn nâng cao chất lượng, số lượng các sản phẩm gỗ, Việt Nam cần phải đẩy mạnh công tác bảo vệ và phát triển rừng hiệu quả. Theo đó, Nhà nước cần có chính sách đặc biệt để các doanh nghiệp có thể nhận đất trồng rừng, nếu như các địa phương làm tốt chính sách này thì đây sẽ là một trong những biện pháp để khắc phục khó khăn về nguồn nguyên liệu phục vụ sản xuất.
Đồng thời, cần có chính sách hỗ trợ đào tạo công nhân lành nghề vì hiện nay chúng ta chỉ có 3 đến 4 trường đào tạo công nhân mỗi năm cho ra trường vài trăm công nhân, không đáp ứng nhu cầu lao động của doanh nghiệp; Đẩy mạnh hơn nữa chính sách giáo dục nghiêng về thực tế, đầu tư thêm máy móc trong trường học để sinh viên có cơ hội tiếp xúc với máy móc, họ sẽ có tay nghề vững hơn khi ra trường mà không bỡ ngỡ với những loại máy móc chuyên dùng ở các doanh nghiệp.
Cùng với việc trồng mới các loại cây lấy gỗ cho năng suất cao, các doanh nghiệp cần tập trung phát triển công nghệ sản xuất gỗ, nhằm nâng cao chất lượng và đa dạng hóa sản phẩm phục vụ thị trường tiêu dùng trong nước và xuất khẩu; Điều chỉnh cơ cấu sản phẩm gỗ và lâm sản ngoài gỗ, nhất là các sản phẩm xuất khẩu theo hướng tăng tỷ trọng giá trị lâm sản sử dụng nguồn nguyên liệu được gây trồng trong nước, phát triển hài hòa cả sản xuất đồ gỗ ngoại thất, nội thất, hạn chế tối đa xuất khẩu sản phẩm thô, bao gồm cả dăm gỗ; Nâng cao việc quy hoạch sản phẩm theo vùng, tiểu vùng gắn với quy hoạch trồng rừng nguyên liệu để bảo đảm hiệu quả đầu tư chung.
Bên cạnh việc xây dựng đồng bộ các chính sách phù hợp của Nhà nước, các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ cũng cần chủ động đầu tư cơ sở vật chất, xây dựng nguồn nhân lực cao, áp dụng công nghệ hiện đại, nâng cao năng lực cạnh tranh và xúc tiến thương mại; Thiết lập và vận hành cơ sở dữ liệu thị trường, thường xuyên cập nhật, chia sẻ thông tin giá cả, chính sách thị trường, các hàng rào kỹ thuật trên cơ sở dữ liệu sử dụng và khai thác có hiệu quả hệ thống thông tin thị trường; Tăng cường quảng bá, xây dựng thương hiệu gỗ và sản phẩm gỗ Việt Nam trên thị trường thế giới, trong đó ưu tiên vào thị trường Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản và Hàn Quốc.
Bên cạnh đó, tăng cường năng lực cạnh tranh, chú trọng nâng cao chất lượng hơn là hạ giá thành sản phẩm, tăng cường liên kết giữa nhà sản xuất và phân phối; Tập trung phát triển mạnh một số thị trường mục tiêu, có nền kinh tế phát triển ổn định, sức mua mạnh và nhu cầu liên tục tăng, các thể chế và kinh doanh, thương mại hoàn thiện, hệ thống phân phối rộng khắp và năng động, bao gồm EU, Mỹ, Nhật Bản và Nga.
Hơn nữa, doanh nghiệp xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam cũng cần nâng cao năng lực quản trị chất lượng trong khâu thiết kế sản phẩm với mẫu mã và kiểu dáng phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng; Quản trị chất lượng trong khâu cung ứng: Kiểm tra chặt chẽ chất lượng nguyên liệu; Tuân thủ nghiêm ngặt yêu cầu đặt hàng của các đối tác nước ngoài về chủng loại và chất lượng nguyên phụ liệu, quy trình sản xuất, quy trình kỹ thuật; Quản trị chất lượng trong khâu sản xuất, thực hiện tốt công tác kiểm tra chất lượng từ các công đoạn trong quá trình sản xuất đến thành phẩm cuối cùng, nâng cao trình độ chuyên môn hoá và ý thức trách nhiệm của lao động trong từng khâu sản xuất…
Tài liệu tham khảo:
1. Thống kê tình hình xuất nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam trong 3 tháng đầu năm 2017, Tổng cục Thống kê;
2. Vũ Thị Minh Ngọc, Hoàng Thị Dung (2014), Thực trạng và một số giải pháp phát triển thị trường lâm sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Lâm nghiệp;
3. Các website: trungtamwto.vn, dangcongsan.vn, hoinongdan.org.vn, vafs.gov.vn…