Hải quan Việt Nam: Tích cực trong cải cách, chủ động với thách thức
Tích cực, chủ động triển khai các bước cải cách, hiện đại hóa, sẵn sàng đối mặt với các thách thức khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là Cộng đồng kinh tế ASEAN là những công việc đã và đang được Hải quan Việt Nam triển khai mạnh mẽ.
Chủ động thực hiện cam kết
Chủ trương của các nước ASEAN, Xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) trở thành một thị trường chung, duy nhất, có tính cạnh tranh cao thúc đẩy sự thịnh vượng cho cả khu vực. Thời điểm hình thành AEC vào cuối năm 2015 chưa phải là điểm kết thúc của quá trình hội nhập kinh tế ASEAN mà là một dấu mốc bắt đầu một chặng đường mới và là cơ sở để ASEAN tiếp tục xây dựng AEC trong những năm tiếp theo.
Trong cộng đồng kinh tế này, hợp tác về Hải quan đóng vai trò rất quan trọng, thúc đẩy các mục tiêu hội nhập kinh tế sâu hơn của ASEAN. Năm 1983, Bộ quy tắc ứng xử Hải quan ASEAN đầu tiên đã được các Tổng cục trưởng Hải quan ASEAN ký kết. Sau đó, Bộ quy tắc này được điều chỉnh vào năm 1995 để phản ánh những diễn biến mới của ASEAN, đặc biệt là vấn đề AFTA.
Thông qua Bộ quy tắc này, các nước thành viên ASEAN cam kết tạo thuận lợi cho thương mại nội khối bằng cách đơn giản hóa và hài hòa hóa các thủ tục thương mại và nâng cao hợp tác khu vực trong lĩnh vực hải quan.
Cam kết tiếp tục được mở rộng với việc ký kết Hiệp định Hải quan ASEAN được tại Hội nghị Bộ trưởng Tài chính ASEAN lần thứ nhất vào ngày 1/3/1997 tại Thái Lan. Hiệp định quán triệt các nguyên tắc về sự nhất quán, đơn giản, hiệu quả, minh bạch, dễ giải quyết khiếu nại và hỗ trợ hành chính lẫn nhau mà Bộ quy tắc ứng xử Hải quan đã đề ra.
Để đẩy nhanh quá trình hội nhập khu vực, ngày 18/6/2008, các Tổng cục trưởng Hải quan ASEAN đã thông qua Tầm nhìn Hải quan ASEAN 2015. Văn kiện này đã đưa ra các mục tiêu mà các nước thành viên cần hướng tới như: Nâng cao chất lượng phục vụ cộng đồng, doanh nghiệp; Thúc đẩy quá trình hiện đại hóa thủ tục hải quan ở các nước; Phát triển nguồn nhân lực và bồi dưỡng nghiệp vụ cho các cán bộ Hải quan; Thống nhất áp dụng các quy tắc phân loại hàng hóa; Thống nhất thực hiện các phương pháp xác định trị giá hải quan theo các cam kết và quy định quốc tế; Đơn giản hóa các thủ tục thông quan; Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và kiểm soát Hải quan…
Trong tiến trình hội nhập ASEAN, Việt Nam đã tích cực thực hiện các cam kết với các nước, trong đó có các cam kết về cắt giảm thuế và cải cách thủ tục hải quan.
Về cắt giảm thuế quan, đến hết năm 2014, Việt Nam đã thực hiện cắt giảm thuế nhập khẩu về 0% cho gần 6.900 dòng thuế có xuất xứ ASEAN, chiếm khoảng 72% trong tổng số 9.558 dòng thuế nhập khẩu. Từ ngày 01/01/2015, Việt Nam cắt giảm thêm 1.720 dòng thuế từ thuế suất 5% xuống 0% theo cam kết của Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA).
Bộ Tài chính cũng đã ban hành Thông tư 165/2014/TT-BTC về biểu thuế ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện Hiệp định ATIGA giai đoạn 2015 - 2018 cũng quy định cụ thể lộ trình cắt giảm thuế đối với 7% số mặt hàng nhạy cảm trong giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2018. Như vậy, có thể nói đến năm 2018, ngoại trừ danh mục 3% dòng thuế trong danh mục loại trừ, toàn bộ số dòng thuế còn lại sẽ được Việt Nam thực hiện cắt giảm đúng cam kết ATIGA.
Về thủ tục hải quan, đối chiếu với nhiệm vụ đặt ra để thực hiện Nghị quyết 19/NQ-CP của Chính phủ; Chỉ thị 24/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Hải quan Việt Nam đã và đang đạt được những kết quả đáng khích lệ trong cải cách thủ tục hành chính và hiện đại hóa hải quan, góp phần to lớn vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Trên cơ sở Luật Hải quan năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành có hiệu lực đến 8/7/2015: 17 thủ tục hành chính trong đó 1 thủ tục hành chính cấp Tổng cục và 16 thủ tục hành chính cấp Chi cục được bãi bỏ; 46 thủ tục hành chính được đơn giản hóa. Số lượng thủ tục hành chính trong lĩnh vực hải quan hiện tại là 204 thủ tục hành chính.
Thủ tục hải quan điện tử cũng đã được thực hiện trên hệ thống VNACCS/VCIS chính thức từ ngày 1/4/2014 đã mang lại hiệu quả rõ rệt và lợi ích thiết thực cho DN xuất nhập khẩu và nâng cao chất lượng quản lý nhà nước về hải quan: Giảm thời gian thông quan, giảm thiểu giấy tờ trong bộ hồ sơ hải quan, tiết kiệm chi phí… Hiện nay, hệ thống VNACCS/VCIS đã được triển khai tại 34/34 Cục Hải quan và 171/171 Chi cục Hải quan toàn quốc.
Thanh toán thuế điện tử cũng được thực hiện tại 34/34 Cục Hải quan tỉnh, thành phố: Hải quan có thể tiếp nhận thông tin từ 22 ngân hàng thương mại có ký thỏa thuận phối hợp thu với tần suất tức thời (online) và từ Kho bạc với tần suất 15 phút/lần; hệ thống có thể tự động hạch toán kết toán, thanh khoản nợ, thông quan hàng hóa cho doanh nghiệp…
Tổng cục Hải quan đã triển khai, tiếp nhận bản lược khai hàng hóa điện tử (E-manifest) và các chứng từ có liên quan để thông quan phương tiện vận tải biển xuất cảnh, nhập cảnh tại tất cả các cửa khẩu càng biển trên phạm vi toàn quốc và 02 cửa khẩu cảng sông quốc tế.
Năm 2015, Tổng cục Hải quan tiếp tục nâng cao năng lực kiểm tra, kiểm soát hải quan, phấn đấu giảm thời gian thông quan bằng mức trung bình của các nước tiên tiến trong khu vực.
Cùng với đó, Tổng cục Hải quan đã triển khai Cơ chế một cửa quốc gia, cơ chế một cửa ASEAN. Đến ngày 4/6/2015, hệ thống Một cửa quốc gia đã kết nối Hải quan (Bộ Tài chính) với các Bộ: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Y tế, Tài nguyên – Môi trường, Công Thương và Giao thông Vận tải.
Việc thực hiện Cơ chế một cửa ASEAN không chỉ thúc đẩy hài hòa hóa các chuẩn mực và thủ tục hải quan mà còn tạo thuận lợi cho sự phối hợp kết hợp giữa cơ quan hải quan các nước, minh bạch hóa thủ tục hải quan, chia sẻ thông tin nội bộ hải quan cũng như các chương trình cụ thể nằm trong Tầm nhìn Hải quan ASEAN 2015.
Như vậy, việc điều chỉnh hệ thống thuế và hiện đại hóa hải quan của các nước ASEAN nói chung, Việt Nam nói riêng chính là bước đi nền tảng để tiếp tục thực hiện các thỏa thuận khác về kinh tế hình thành AEC.
Một số thách thức đặt ra
Bên cạnh những cơ hội, Việt Nam cũng phải đối mặt với một số khó khăn, thách thức trong môi trường hội nhập. Trong đó, hạ tầng cơ sở Việt Nam còn khá lạc hậu là một trong những cản trở lớn, làm chi phí đầu vào của DN tăng và ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh, thị trường tài chính chưa phát triển mạnh mẽ...
Chính vì thế, điều đầu tiên chúng ta cần làm khi gia nhập AEC là hoàn thiện thể chế để thực thi các cam kết trong ASEAN trên tất cả các lĩnh vực. Đặc biệt, ngành Hải quan cần khẩn trương giải quyết những vấn đề còn tồn tại. Chẳng hạn, về cơ chế Một cửa quốc gia, hiện số lượng hồ sơ thực hiện giai đoạn đầu kết nối chính thức còn chưa nhiều.
Các bộ, ngành vẫn đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống công nghệ thông tin để kết nối và thực hiện các thủ tục hành chính. Các dịch vụ gia tăng trên hệ thống Một cửa quốc gia cần được triển khai gắn với mở rộng các chức năng của hệ thống thông quan hàng hóa tự động VNACCS.
Công tác kiểm tra hải quan, đặc biệt là kiểm tra chuyên ngành hàng hóa xuất nhập khẩu còn nhiều điều chỉnh bởi các quy định pháp luật có liên quan, dẫn đến những yêu cầu về chứng từ, kiểm tra thực tế hàng hóa và trì hoãn trong giải phóng hàng. Việc kết nối tích hợp cơ sở dữ liệu do các cơ quan quản lý lưu giữ phục vụ công tác kiểm soát hải quan nhằm đảm bảo an ninh cho dây chuyền cung ứng thương mại quốc tế còn gặp nhiều khó khăn. Số lượng cơ quan sẵn sàng cung cấp dữ liệu còn hạn chế.
Trong khi đó, tình hình buôn lậu, gian lận thương mại tiếp tục gia tăng; Nguồn lực đầu tư cơ sở hạ tầng, mua sắm trang thiết bị phục vụ công tác hải quan còn gặp nhiều khó khăn do đây không phải là lĩnh vực được khuyến khích xã hội hóa. Nguồn nhân lực, đội ngũ cán bộ công chức hải quan vẫn còn hạn chế, vì vậy, phải tiếp tục đầu tư cho công tác đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao tính chuyên nghiệp.
Trong bối cảnh hiện nay, ngành Hải quan đứng trước yêu cầu phải triển khai có hiệu quả các cam kết tạo thuận lợi cho thương mại, đảm bảo tuân thủ pháp luật và cam kết thỏa thuận trong các Hiệp định thương mại tự do đã ký kết.
Để làm được điều này, ngành Hải quan cần tiếp tục rà soát, hoàn thiện các quy trình thủ tục hải quan để thực hiện mục tiêu nâng cao năng lực kiểm tra, giám sát hải quan, thực hành pháp luật về thuế hiệu quả, đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm thời gian thông quan và kiểm soát hải quan tốt hơn trong bối cảnh khu vực hướng tới AEC.