Hệ thống tài chính vi mô: Công cụ xóa đói, giảm nghèo bền vững
Tài chính vi mô đóng vai trò hết sức quan trọng đối với công cuộc giảm nghèo và phát triển, đặc biệt là tại khu vực nông nghiệp nông thôn, nơi có đến 90% người nghèo trong cả nước. Sự hoạt động hiệu quả của hệ thống tài chính vi mô ở Việt Nam trong những năm qua đã góp phần quan trọng trong hiện thực hóa chủ trương của Đảng và Nhà nước về đảm bảo an sinh xã hội và giảm nghèo bền vững.
Một số thành tựu
Năm 1986, Việt Nam chính thức thực hiện chính sách quốc gia về xóa đói giảm nghèo thông qua việc thúc đẩy các hoạt động sản xuất của người nghèo. Bên cạnh đó, với sự hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ (NGO) quốc tế; các chương trình hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) song phương và đa phương; các cơ quan đoàn thể và chính quyền địa phương, các chương trình tài chính vi mô đã hình thành với mục đích giảm nghèo cho phụ nữ, trẻ em… Đối với việc ban hành chính sách quốc gia về giảm nghèo bền vững, trong đó có khu vực nông nghiệp nông thôn, Đảng và Nhà nước đã ban hành trên 153 văn bản điều hành. Trong đó, lần đầu tiên loại hình Tổ chức Tài chính vi mô được khẳng định là một loại hình tổ chức tín dụng (TCTD) trong hệ thống các TCTD của Việt Nam.
Hiện nay, ở Việt Nam có hàng trăm tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính vi mô thuộc ba khu vực: Khu vực chính thức (gồm, hệ thống quỹ tín dụng nhân dân, ngân hàng chính sách xã hội và Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn); khu vực bán chính thức (gồm, các tổ chức phi chính phủ trong và ngoài nước và chương trình của các tổ chức xã hội) và khu vực phi chính thức (các nhóm cho vay tương hỗ dưới hình thức phường, họ, hụi, thậm chí vay nặng lãi…). Tài chính vi mô cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng (cho vay, tiết kiệm, bảo hiểm, giáo dục tài chính cho khách hàng lập ngân sách và tiết kiệm, hỗ trợ tài chính kịp thời cho khách hàng gặp khó khăn), giúp người nghèo hoạt động sản xuất kinh doanh, đa dạng các khoản thu nhập ngoài sản xuất nông nghiệp, có các khoản thu nhập khác từ tiểu thủ công nghiệp, thương mại, kinh doanh doanh nhỏ. Đồng thời, góp phần giúp người nghèo tránh, giảm rủi ro về kinh tế và cuộc sống, từ đó, tăng thu nhập hộ gia đình.
Một khảo sát mới đây được Nhóm công tác Tài chính vi mô Việt Nam tiến hành nhằm đánh giá mức độ bền vững của các tổ chức tài chính vi mô Việt Nam cho thấy, 90% đối tượng khảo sát bày tỏ sự hài lòng của mình khi vay vốn tại các tổ chức Tài chính vi mô vì sự thuận tiện và phù hợp với nhu cầu bản thân họ; 95,3% người được hỏi cho rằng, muốn được vay vốn từ tổ chức này. Những con số trên chứng tỏ nhu cầu vay vốn của nhiều dân nghèo từ các tổ chức tài chính vi mô là rất lớn.
Đa số người nghèo Việt Nam sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp với năng suất lao động thấp, ít được tiếp cận với các dịch vụ tài chính và kiến thức. Tài chính vi mô có khả năng cung cấp các loại hình dịch vụ và sản phẩm tài chính cho cộng đồng người nghèo nhằm giúp họ cải thiện đời sống, phát triển kinh tế và đóng góp cho xã hội. Mặc dù, vốn vay của tài chính vi mô không lớn như ngân hàng thương mại hay ngân hàng chính sách nhưng lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Bởi vì những khoản vay này đến được với người nghèo trong thời điểm cần thiết nhất, giúp họ khởi tạo sản xuất kinh doanh, tạo dựng tài sản, ổn định chỉ tiêu và bảo vệ họ khỏi nghèo đói.
Trong những năm qua, với chủ trương phát triển kinh tế - xã hội đã đặc biệt quan tâm vấn đề đảm bảo an sinh xã hội mà trong đó công cuộc xóa đói giảm nghèo ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa luôn được chú trọng và ưu tiên. Việt Nam đã đạt được những thành tựu ấn tượng về giảm nghèo, cải thiện chất lượng cuộc sống người dân thông qua việc thực hiện đồng loạt các chương trình trọng điểm, duy trì mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo… Kết quả thực hiện các chỉ tiêu về giảm nghèo giai đoạn 2005 – 2010 (áp dụng chuẩn nghèo cũ): Tỷ lệ hộ nghèo cả nước đã giảm từ 22% (năm 2005) xuống còn 18,1% (năm 2006); 14,75% (năm 2007); 12,1% (năm 2008); 11,3% (năm 2009) và 9,45% (năm 2010). Tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn 62 huyện nghèo giảm xuống còn 37%. Đối với giai đoạn 2010 - 2014 (áp dụng chuẩn nghèo mới): Tỷ lệ hộ nghèo cả nước đã giảm từ 14,2% (năm 2010) xuống còn 11,76% (năm 2011) và 9,6% (năm 2012), năm 2013 còn khoảng 7,6%-7,8%, năm 2014 còn khoảng 5,8%-6%. Đặc biệt, ngày 16/6/2013, tại Italia, Tổ chức Nông Lương Liên hợp quốc (FAO) đã tổ chức Sự kiện đặc biệt “Công nhận thành tích nổi bật trong đấu tranh xóa đói giảm nghèo” cho 38 quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Về tín dụng vi mô cho người nghèo khu vực nông nghiệp- nông thôn, tổng dư nợ của Ngân hàng Chính sách Xã hội tính đến 30/6/2014 đạt 126.666 tỷ đồng, gấp trên 18 lần so với thời điểm thành lập (năm 2003), tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 29,4%. Hiện có gần 7 triệu hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách khác còn dư nợ, tăng hơn 4 triệu khách hàng so với thời điểm thành lập với dư nợ bình quân hơn 18 triệu đồng/khách hàng (tăng hơn 15 triệu đồng/khách hàng). Dư nợ cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách tại các huyện nghèo theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ là 9.796 tỷ đồng với hơn 422 nghìn khách hàng còn dư nợ. Trong hơn 11 năm qua, đã có trên 24,5 triệu lượt hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách khác được vay vốn từ Ngân hàng Chính sách Xã hội. Vốn tín dụng chính sách đã góp phần giúp trên 3,2 triệu hộ vượt qua ngưỡng nghèo; thu hút, tạo việc làm cho trên 10 triệu lao động, trong đó trên 102 nghìn lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài; giúp 3.236 nghìn học sinh sinh viên được vay vốn học tập...
Nhận thức được vai trò quan trọng của tài chính vi mô như là một công cụ hữu hiệu để xóa đói giảm nghèo, Thủ tướng Chính phủ đã phê chuẩn Chiến lược phát triển Tài chính vi mô của Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 với mục tiêu chuyển đổi tài chính vi mô thành một ngành vững mạnh theo định hướng thị trường; đảm bảo sự tiếp cận dịch vụ cho tất cả khách hàng với các tổ chức tham gia dịch vụ tài chính vi mô mạnh; cung cấp nhiều dịch vụ tài chính có chất lượng cho các hộ gia đình nghèo và thu nhập thấp; tăng cường cơ hội phát triển kinh tế cho người dân. Chương trình Phát triển tài chính vi mô sẽ hướng tới hợp nhất tài chính vi mô vào thị trường tài chính chính thức, thông qua thúc đẩy phát triển các tổ chức tài chính vi mô mới nổi, thành các TCTD chính thức được Ngân hàng Nhà nước cấp phép hoạt động…
Phát triển tài chính vi mô khu vực nông nghiệp, nông thôn
Đóng góp chung vào công cuộc xóa đói giảm nghèo, trong những năm qua, lĩnh vực tài chính vi mô đã cung cấp rất nhiều dịch vụ tài chính cho nhiều người nghèo khu vực nông nghiệp- nông thôn. Tuy nhiên, hoạt động này vẫn còn gặp phải một số khó khăn nhất định như: Việc thiếu các dịch vụ tài chính phù hợp đáp ứng nhu cầu của người dân, khả năng tiếp cận người dân tại các vùng sâu, vùng xã và vùng đặc biệt khó khăn còn nhiều hạn chế; sự phát triển các tổ chức tài chính vi mô chưa đồng bộ và còn có hạn chế về khuôn khổ pháp lý.
Hiện nay, kênh phân phối tài chính vi mô khá hiệu quả và chủ lực thường là những đơn vị thuộc Chính phủ như Ngân hàng Chính sách xã hội, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hoặc các chương trình xoá đói giảm nghèo. Tuy nhiên, thống kê cũng cho thấy, dù được Nhà nước hỗ trợ về nguồn lực tài chính song nhóm chính thức này cũng chỉ giúp được khoảng 50% số hộ nghèo tiếp cận tài chính vi mô. Trong khi đó, hoạt động của nhóm bán chính thức còn manh mún, dàn trải...
Các tổ chức tài chính vi mô dường như chưa chủ động trong việc vạch phương án sản xuất kinh doanh, giúp hộ nghèo kiểm soát đồng vốn cũng như khả năng sinh lời của chúng để có cơ sở giải ngân. Để có thể phát triển mạnh hệ thống tài chính vi mô trong thời gian tới, tạo động lực và công cụ cho công cuộc xóa đói, giảm nghèo bền vững cho những năm tới thì toàn bộ hệ thống chính trị và các cơ quan hữu quan cần đồng thời thực hiện một số nhóm giải pháp sau:
Về nâng cao nhận thức
Tài chính vi mô có rất nhiều hoạt động, không chỉ cung cấp dịch vụ tín dụng mà còn các dịch vụ thanh toán, bảo hiểm, các dịch vụ xã hội… vậy nhưng đến nay, rất nhiều người vẫn còn nhầm lẫn tài chính vi mô với tín dụng vi mô. Mặt khác, việc cung cấp các dịch vụ tài chính và dịch vụ xã hội không phải là một hoạt động từ thiện. Đặc trưng của tài chính vi mô là thực hiện hai chức năng: Chức năng xã hội là giúp đỡ những người nghèo; chức năng kinh tế là phải thu đủ bù chi, tự nuôi sống mình để tồn tại và phát triển. Từ đó, đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức về tài chính vi mô cũng như tăng cường phổ biến kinh nghiệm và các mô hình hoạt động tài chính vi mô hiệu quả.
Về hệ thống chính sách
- Xây dựng môi trường pháp lý đồng bộ, phù hợp với đặc thù của hoạt động tài chính vi mô như: Hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật; ban hành các chính sách hỗ trợ phù hợp; chính sách thuế, phí phù hợp; phát triển hoạt động bảo hiểm vi mô theo hướng chuyên nghiệp;
- Xây dựng các chính sách kinh tế vĩ mô thuận lợi cho tài chính vi mô phát triển, trọng tâm là chính sách lãi suất, lãi suất phải đủ bù đắp được chi phí hoạt động, tình trạng mất vốn, lạm phát của tài chính vi mô trong quá trình mới thành lập. Còn trong quá trình hoạt động, khi các tổ chức tài chính vi mô theo đuổi các mục tiêu xã hội, Chính phủ xem xét miễn thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp. Thêm vào đó, cần phải bổ sung điều chỉnh những chính sách tài chính vi mô cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn sao cho phù hợp thiết thực hiệu quả và khả thi;
- Kết hợp chặt chẽ giữa chính sách tài chính vi mô, chính sách giảm nghèo với phát triển kinh tế - xã hội và quốc phòng, an ninh. Thực hiện chính sách hỗ trợ có điều kiện gắn với đối tượng, địa bàn và thời hạn thụ hưởng nhằm tăng cơ hội tiếp cận chính sách và khuyến khích sự tích cực, chủ động tham gia của người nghèo. Tăng nguồn vốn tín dụng ưu đãi cho hộ nghèo, hộ cận nghèo; điều chỉnh đối tượng, mức vay, lãi suất, thời hạn cho vay phù hợp gắn với chính sách khuyến nông, khuyến công, khuyến lâm, khuyến ngư, chuyển giao khoa học kỹ thuật, xây dựng, nhân rộng mô hình thoát nghèo gắn kết với cộng đồng dân cư trên địa bàn;
Về phương thức hoạt động
- Lồng ghép các hoạt động tài chính vi mô vào các chương trình khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư và các hoạt động của các hội, đoàn thể;
- Các tổ chức tài chính vi mô cần có sự trợ giúp ban đầu của Chính phủ và các nhà tài trợ, khi mà các tổ chức tài chính vi mô chưa có khả năng huy động tiết kiệm;
- Cần phải minh bạch, công khai về tài chính: Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng người nghèo bị tính lãi suất quá cao khi vay vốn, là do các tổ chức tài chính vi mô đưa ra các khoản phí được tính thêm làm cho lãi suất các khoản vay tăng cao.
Về tổ chức thực hiện
- Chính phủ và các cơ quan ban ngành chức năng cần thúc đẩy hơn nữa cơ chế hoạt động của các tổ chức tài chính vi mô; đồng thời, tạo ra một thị trường cạnh tranh công bằng và minh bạch hoạt động cho các tổ chức này như: Sớm hoàn thiện khung pháp lý và tổ chức hoạt động của hệ thống tài chính vi mô; áp dụng mức lệ phí cấp giấy phép hợp lý trong mối tương quan với Quỹ tín dụng nhân dân. Xem xét áp dụng chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp ở cấp độ cao nhất đối với tài chính vi mô; đẩy mạnh hoạt động của hệ thống tín dụng vi mô tài chính vi mô là nơi nào các ngân hàng thương mại không với tới thì các tổ chức tài chính vi mô sẽ tiếp cận và giúp đỡ người dân.
- Xây dựng hệ thống giám sát kiểm tra cho hoạt động tài chính vi mô. Cần có một tổ chức như hiệp hội tiến hành thống kê toàn diện về các chương trình tài chính vi mô ở Việt Nam nhằm cải thiện thông tin về Tài chính vi mô. Đồng thời, giám sát hoạt động và đưa ra các chuẩn mực so sánh. Thông tin thu nhập được sẽ góp phần hỗ trợ Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính trong việc soạn thảo các thông tư hướng dẫn.
- Các tổ chức tài chính vi mô cần tăng cường đầu tư các hoạt động nghiên cứu và phát triển; Đào tạo nhân lực có chuyên môn về tài chính ngân hàng, quản lý tài chính, chuyên nghiệp hóa cán bộ; Nâng cao khả năng quản lý vốn và điều hành tổ chức; Tối ưu hóa việc sử dụng thông tin và hệ thống thông tin quản lý, quản lý rủi ro; Mở rộng các hoạt động quảng bá sản phẩm tín dụng...
Tài liệu tham khảo:
1. Báo cáo giảm nghèo năm 2014 và kế hoạch năm 2015 của Ban chỉ đạo Trung ương về giảm nghèo bền vững giai đoạn 2011-2020;
2. Báo cáo về tài chính vi mô năm 2014 của Ban công tác tài chính vi mô;
3. Đào Văn Hùng (2005), Phát triển hoạt động Tài chính vi mô ở Việt Nam, NXB Lao Động - Xã hội;
4. Đặc san Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam từ số 46 đến số 67;
5. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2014), Hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam, tính đến ngày 01/12/2014;
6. Các website: giamngheo.molisa.gov.vn, thuvienphapluat.vn, gso.gov.vn, vietnamplus.vn, vneconomy.vn...