Kiểm soát quyền lực ở đặc khu: Cần đủ chặt để phát huy tính chủ động
Nhiều ý kiến lưu ý cần tính toán về mức độ và nội dung kiểm soát cho hợp lý, tránh hình thức hoặc hoạt động giám sát ảnh hưởng tới công tác chỉ đạo, điều hành của chính quyền đặc khu.
Ngày 4/4, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã tổ chức Hội nghị đại biểu Quốc hội chuyên trách về Dự Luật đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt trước khi trình Quốc hội tại kỳ họp tới. Điểm mới được nhiều đại biểu quan tâm là dự thảo lần này thiết kế thêm Ban Tư vấn hỗ trợ phát triển đặc khu, do Thủ tướng thành lập để nằm vùng tại địa phương này.
Trình bày báo cáo tiếp thu, chỉnh lý dự án luật, Chủ nhiệm Uỷ ban Pháp luật Nguyễn Khắc Định cho biết, mô hình tổ chức chính quyền địa phương ở đặc khu được chỉnh lý đảm bảo phù hợp với quy định của Hiến pháp, kết luận của Hội nghị Trung ương và ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị.
Việc xác định mô hình tổ chức chính quyền địa phương ở đặc khu là nội dung trọng tâm, xuyên suốt của Dự thảo Luật. Theo đó, chính quyền địa phương ở đặc khu là cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân (HĐND) đặc khu và Ủy ban nhân dân (UBND) đặc khu với những đổi mới cơ bản về cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm và cách thức hoạt động nhằm bảo đảm tinh gọn, hiệu lực và hiệu quả.
Theo dự thảo, HĐND đặc khu không tổ chức Thường trực HĐND. Tổng số đại biểu không quá 15 người, trong đó đa số hoạt động chuyên trách. Giúp việc HĐND, đại biểu HĐND có Văn phòng HĐND đặc khu. UBND đặc khu do HĐND đặc khu bầu, chỉ bao gồm Chủ tịch và 2 Phó Chủ tịch. Xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng, đặc khu do Quốc hội quyết định thành lập. Chủ tịch UBND đặc khu do HĐND đặc khu bầu theo giới thiệu của Bộ trưởng Bộ Nội vụ trên cơ sở thống nhất với Chủ tịch UBND cấp tỉnh, được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn.
Về tổ chức, đặc khu có các khu hành chính được xác định theo ranh giới địa lý. Trưởng Khu hành chính do Chủ tịch UBND đặc khu bổ nhiệm, là người đại diện của Chủ tịch UBND đặc khu tại khu hành chính, thực hiện các nhiệm vụ theo ủy quyền của Chủ tịch UBND đặc khu.
Chủ tịch UBND đặc khu thực hiện hầu hết các thẩm quyền về điều hành, quyết định các vấn đề kinh tế - xã hội tại đặc khu, bao gồm các nhiệm vụ, quyền hạn đặc thù được quy định tại Luật này và các nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương ở thành phố thuộc tỉnh và ở phường theo quy định của pháp luật có liên quan (trừ nhiệm vụ, quyền hạn đã giao cho HĐND đặc khu và UBND đặc khu).
Chủ tịch UBND đặc khu được phân quyền mạnh, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế với nhiều thẩm quyền của các cơ quan nhà nước cấp trên nhằm tạo sự chủ động, linh hoạt, đồng thời phát huy quyền tự chủ và trách nhiệm cá nhân của Chủ tịch UBND đặc khu.
Tuy nhiên để giám sát và kiểm soát đối với hoạt động của chính quyền địa phương ở đặc khu, ngoài các cơ chế giám sát theo quy định của pháp luật hiện hành (giám sát của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, HĐND, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội khác), dự thảo Luật đã bổ sung quy định về công khai, minh bạch trong hoạt động của chính quyền địa phương ở đặc khu, trong đó quy định trách nhiệm của các cơ quan chính quyền địa phương ở đặc khu phải công khai hoạt động của mình, nội dung công khai, hình thức công khai; trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tiếp cận thông tin phù hợp với quy định của pháp luật về tiếp cận thông tin.
Bên cạnh đó, dự thảo Luật bổ sung quy định về Ban Tư vấn, hỗ trợ phát triển đặc khu do Thủ tướng Chính phủ thành lập nhằm thiết lập cơ chế kiểm soát đặc thù của Trung ương đặt tại từng đặc khu để tăng cường kiểm soát đối với hoạt động của các cơ quan chính quyền địa phương ở đặc khu, đặc biệt là trong việc thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước cấp trên được Luật này phân quyền cho Chủ tịch UBND đặc khu.
Ông Nguyễn Khắc Định cho biết, cơ chế kiểm soát này được thực hiện thông qua việc tư vấn cho UBND, Chủ tịch UBND đặc khu trước khi quyết định những vấn đề quan trọng; cảnh báo các cơ quan chính quyền địa phương ở đặc khu về những rủi ro, hạn chế, bất cập trong hoạt động của các cơ quan này; giúp Thủ tướng Chính phủ theo dõi, đánh giá hoạt động của UBND, Chủ tịch UBND đặc khu; kiến nghị với Thủ tướng về những vấn đề có liên quan đến phát triển của đặc khu.
Chức năng, nhiệm vụ và hoạt động của Ban Tư vấn, hỗ trợ phát triển đặc khu không trùng lặp với chức năng tham mưu, giúp việc của các cơ quan chuyên môn thuộc chính quyền đặc khu, chức năng giám sát của HĐND đặc khu cũng như công tác chỉ đạo của Ban chỉ đạo quốc gia về xây dựng các đơn vị HCKTĐB. Việc bổ sung cơ chế này cũng là tiếp thu kinh nghiệm của các nước, nhằm thử nghiệm phương thức kiểm soát quyền lực mới, đặc thù, tương xứng với thẩm quyền vượt trội của chính quyền địa phương ở đặc khu.
Song có không ít đại biểu Quốc hội, đặc biệt là đại biểu Quốc hội ở địa phương có đặc khu không tán thành việc bổ sung cơ chế này. Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Ninh, bà Đỗ Thị Lan cho rằng, “nếu Chủ tịch UBND đặc khu không đồng ý với ý kiến của Ban tư vấn thì lại phải giải trình bằng văn bản nói rõ lý do. Đây là bước có thể sẽ kéo lùi, làm chậm thực hiện nhiệm vụ của Chủ tịch UBND và UBND đặc khu. Hơn nữa, việc tổ chức Ban tư vấn ngay trong đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt là chưa phù hợp chủ trương của Trung ương về tinh gọn tổ chức bộ máy cũng như chưa tạo điều kiện phát huy hiệu lực hiệu quả của UBND và Chủ tịch UBND đặc khu”.
Tương tự, đại biểu Tô Văn Tám (Kon Tum) cho rằng, hàng loạt vấn đề Chủ tịch UBND và UBND đặc khu phải xin ý kiến Ban này trước khi quyết định là chưa phù hợp. “Nay đã xác định để giám sát hoạt động của các đặc khu thì có cả HĐND, Quốc hội, các tổ chức chính trị xã hội... Nếu thêm Ban Tư vấn hỗ trợ phát triển đặc khu thì vô hình trung làm mất tính chủ động, thêm sự ràng buộc với UBND và Chủ tịch UBND đặc khu. Do đó, không cần thiết có ban này”, ông Tám nói.
Được biết, lý do để Ban soạn thảo bổ sung quy định thiết lập cơ chế kiểm soát đặc thù của Trung ương đặt tại từng đặc khu thông qua Ban tư vấn, hỗ trợ phát triển đặc khu là do tại Kỳ họp thứ 4, khi trình dự luật này ra thảo luận tại Quốc hội, một số ý kiến đại biểu Quốc hội đề nghị cần làm rõ hơn cơ chế, cách thức giám sát đối với chính quyền địa phương ở đặc khu để bảo đảm chặt chẽ, hiệu quả. Việc kiểm soát đối với cơ quan nhà nước tại đặc khu phải là kiểm soát đặc biệt của chính quyền trung ương, trong đó có vai trò của các bộ, ngành ở trung ương. Tuy nhiên, các đại biểu cũng lưu ý cần tính toán về mức độ và nội dung kiểm soát cho hợp lý, tránh hình thức hoặc hoạt động giám sát ảnh hưởng tới công tác chỉ đạo, điều hành của chính quyền đặc khu.