Kinh nghiệm huy động vốn phát triển cơ sở hạ tầng trên thế giới

ThS. LÊ THỊ HÒA

(Tài chính) Đầu tư xây dựng, nâng cấp, cải tạo kết cấu hạ tầng luôn là yêu cầu thiết yếu đối với mỗi nước. Tuy nhiên, với sự tham gia đa dạng của các thành phần kinh tế, mỗi nước lại có phương pháp kêu gọi, thu hút nguồn vốn riêng cho phát triển cơ sở hạ tầng.

Một số mô hình huy động vốn quốc tế

Khảo sát cho thấy, hiện nay trên thế giới có 3 nguồn vốn chủ yếu được huy động để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, đáp ứng nhu cầu phát triển: Đầu tư công từ nguồn ngân sách nhà nước (NSNN); Vốn huy động trong nước qua hệ thống ngân hàng, các doanh nghiệp (DN), phát hành trái phiếu…; Vốn huy động nước ngoài (các khoản vay quốc tế, phát hành trái phiếu quốc tế, đầu tư trực tiếp của nước ngoài…). Cụ thể như:

Tại các quốc gia đang phát triển châu Á: Do quy mô NSNN nhỏ và phải chi tiêu, đầu tư cho nhiều lĩnh vực khác, cho nên phần lớn nguồn vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng được huy động từ nước ngoài (chủ yếu là vốn vay ODA) và các nhà đầu tư tư nhân trong và ngoài nước. Nhà nước chỉ đóng vai trò ban hành các cơ chế, chính sách để duy trì môi trường đầu tư thuận lợi, tạo điều kiện và khuyến khích nhiều thành phần trong xã hội tham gia đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, nhất là thành phần kinh tế tư nhân.

Tại một số nước như Hàn Quốc, Malaysia, Singapore, Thái Lan... cũng xác định NSNN không phải là nguồn cung cấp vốn chính cho phát triển kết cấu hạ tầng. Các nước này đã chủ động kêu gọi sự tham gia của thành phần tư nhân và nhà đầu tư nước ngoài. Trong hầu hết các dự án phát triển kết cấu hạ tầng, vai trò của chính quyền hầu như chỉ là duy trì một môi trường đầu tư ổn định với hệ thống luật pháp thống nhất và mức thuế thấp. Các DN tư nhân và nhà đầu tư nước ngoài được khuyến khích khai thác tối đa các cơ hội kinh doanh. Hình thức hợp tác công – tư (PPP) cũng được áp dụng với nhiều công cụ hỗ trợ đa dạng như: Trợ giá xây dựng, bảo lãnh tín dụng, bảo lãnh doanh thu tối thiểu, trợ giá vận hành, thời hạn chuyển giao dài...

Tại Ấn Độ: Xác định vốn từ NSNN là không thể đủ cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nên Ấn Độ cũng đã xây dựng hệ thống chính sách và môi trường thuận lợi cho các dự án đầu tư theo hình thức PPP; khuyến khích thành phần tư nhân tham gia mạnh mẽ vào các dự án đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông. Không chỉ vậy, Ấn Độ còn thành lập Công ty Tài chính phát triển kết cấu hạ tầng (IIFC) nhằm huy động tài chính từ nhiều nguồn khác nhau, sau đó cung cấp vốn cho các dự án một cách trực tiếp hoặc thông qua các ngân hàng và tổ chức tín dụng.

Tại Cộng hòa Séc: Nước này đã thành công với Công ty Tài chính kết cấu hạ tầng địa phương (MUFIS). Trong đó, chính quyền địa phương tự xây dựng dự án, ngân hàng thương mại tiến hành đánh giá và chấp nhận tất cả các rủi ro tín dụng cho khoản vay của họ. MUFIS đã kích thích được sự cạnh tranh giữa các tổ chức cho vay thương mại đối với chính quyền địa phương và mở rộng sự tiếp cận tài chính cho chính quyền địa phương.

Tại Nhật Bản: Sự tham gia của tư nhân vào xây dựng cơ sở hạ tầng đường bộ đã giúp Nhật Bản có một hệ thống giao thông đường bộ với chất lượng cao. Quỹ Phát triển hệ thống đường bộ cao tốc được sử dụng từ nguồn thuế, phí đường bộ; điều tiết lãi từ những đoạn đường có khả năng hoàn vốn đầu tư để bao cấp cho những đoạn đường sẽ đầu tư nhằm hoàn thiện hệ thống, tạo hiệu quả kinh tế xã hội cao.

Tại Mỹ: Chính phủ đã cho phép khu vực tư nhân tham gia quy hoạch, cung cấp các dịch vụ công cộng cho ngành Giao thông và loại bỏ các rào cản để thành phần tư nhân tham gia vào lĩnh vực này ngày càng nhiều hơn. Thành lập Quỹ Phát triển giao thông để huy động vốn. Tiền của Quỹ sẽ được dành chủ yếu cho những dự án do các Bang độc lập triển khai thực hiện. Đối với những dự án đặc thù, Chính phủ liên bang chịu 80% chi phí và các bang chịu phần còn lại.

Tại Pháp: Luật pháp nước này công nhận việc cổ phần hóa và áp dụng các trạm thu phí đường bộ nhưng Nhà nước vẫn duy trì một hệ thống kiểm soát quan trọng trên toàn bộ các tuyến đường nhượng quyền. Cách làm trên đã góp phần giải quyết những khó khăn về ngân sách, đáp ứng đòi hỏi về phát triển cơ sở hạ tầng giao thông của nước này…

 Từ nay đến năm 2020, mỗi năm Việt Nam cần từ 16-17 tỷ USD cho phát triển kết cấu hạ tầng, trong khi khả năng đáp ứng theo cách truyền thống là từ ngân sách chỉ khoảng 50-60%. Ngân hàng Thế giới cho rằng: Việt Nam cần phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp như: Cải cách khu vực ngân hàng, phát triển thị trường vốn trong nước, thu hút đầu tư theo mô hình PPP…

Việt Nam nên chú ý tới nhà đầu tư tư nhân

Từ nay đến năm 2020, mỗi năm Việt Nam cần từ 16-17 tỷ USD cho phát triển kết cấu hạ tầng, trong khi khả năng đáp ứng theo cách truyền thống từ ngân sách chỉ khoảng 50-60%. Trước bối cảnh nguồn vốn NSNN cho đầu tư eo hẹp, kinh tế khó khăn trong khi cơ hội tiếp cận với các khoản vay ưu đãi từ các nhà tài trợ ngày càng giảm (do Việt Nam trở thành quốc gia có thu nhập trung bình), từ kinh nghiệm huy động vốn thành công của quốc tế, các chuyên gia của Ngân hàng Thế giới đưa ra gợi ý: Không có một giải pháp nào tồn tại đơn lẻ, Việt Nam cần phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp như: Cải cách khu vực ngân hàng, phát triển thị trường vốn trong nước, thu hút đầu tư theo mô hình PPP và nguồn tài chính từ đất đai, quỹ tài chính hạ tầng đô thị. Cụ thể:

Thứ nhất, tháo gỡ những rào cản để đẩy mạnh thu hút nguồn vốn tư nhân nước ngoài thông qua các hoạt động xúc tiến đầu tư, chính sách rõ ràng hấp dẫn và quỹ đất sạch… Việc thu hút vốn từ các nhà đầu tư tư nhân nước ngoài thời gian qua còn hạn chế, chưa đạt hiệu quả cao là vì: Các quy định về đầu tư tư nhân trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng chưa thực sự đầy đủ, rõ ràng; thiếu minh bạch trong lựa chọn dự án và nhà đầu tư; thiếu sự cam kết và hỗ trợ trực tiếp của Nhà nước và các cơ quan chức năng trong quá trình triển khai…

Kinh nghiệm huy động vốn phát triển cơ sở hạ tầng trên thế giới  - Ảnh 1

Thứ hai, quy hoạch phải đi trước một bước, làm cơ sở cho việc hoạch định kế hoạch đầu tư phát triển. Như vậy, mới có thể thu hút được các nguồn vốn đầu tư của Nhà nước đúng nơi, đúng chỗ, phân bổ phù hợp và phát huy hiệu quả cao nhất.

Thứ ba, bên cạnh mở rộng các kênh đầu tư, phải có các cơ chế chính sách đột phá và cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, xúc tiến đầu tư... Đặc biệt, cần xây dựng một chiến lược và có cơ chế hiệu quả để xã hội hóa và huy động tối đa nguồn vốn tư nhân vào tham gia đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Tìm kiếm các mô hình PPP hợp lý đang là giải pháp hữu hiệu nhất để thu hút mạnh nguồn vốn từ xã hội như: Mở rộng lĩnh vực và danh mục dự án đầu tư PPP, khắc phục vướng mắc về chi phí chuẩn bị đầu tư đối với các dự án PPP từ vốn ngân sách, có cơ chế ưu đãi đầu tư...

Thứ tư, cần chuyển vai trò từ tham gia đầu tư trực tiếp sang duy trì một môi trường đầu tư hấp dẫn, ổn định với hệ thống luật pháp đầy đủ điều chỉnh các quan hệ đầu tư theo các hình thức PPP, BT, BOT... Bên cạnh đó, tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, rà soát loại bỏ các thủ tục hành chính không còn phù hợp, đơn giản hóa thủ tục và quy trình giải quyết thủ tục hành chính. Đồng thời, thúc đẩy xây dựng chính quyền điện tử, trung tâm dịch vụ hành chính công... tạo môi trường đầu tư thông thoáng, minh bạch và ổn định.