Kinh tế Việt Nam năm 2024 và triển vọng năm 2025
Năm 2024, trong bối cảnh tình hình thế giới có diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường cùng với các vấn đề thiên tai, thời tiết cực đoan ảnh hưởng đến cuộc sống của dân cư và phát triển kinh tế – xã hội trong nước, Chính phủ Việt Nam đã chỉ đạo thực hiện kịp thời các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bảo đảm ổn định vĩ mô, duy trì các cân đối lớn của nền kinh tế, ứng phó với áp lực lạm phát, tập trung tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh. Nhờ đó, Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia tăng trưởng cao nhất trên thế giới và trong khu vực.
Bối cảnh kinh tế khu vực và thế giới
Năm 2024, kinh tế toàn cầu duy trì đà phục hồi lạc quan, dù vẫn đối mặt với nhiều thách thức. Với tinh thần quyết tâm kiểm soát lạm phát, các chính phủ quyết định duy trì chính sách tiền tệ thắt chặt, vốn đã được bắt đầu từ năm 2023 và đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF, tháng 10/2024) dự báo, tỷ lệ lạm phát toàn cầu sẽ giảm còn 3,5% vào cuối năm 2025, từ mức đỉnh 9,4% trong quý III/2021.
Tuy nhiên, triển vọng tăng trưởng vẫn phải đối mặt với nhiều yếu tố bất định, do thế giới phải đối mặt với nhiều khó khăn trong bối cảnh căng thẳng địa chính trị leo thang, bất ổn chính sách gia tăng, chủ nghĩa bảo hộ gia tăng, biến đổi khí hậu và các điều kiện thời tiết cực đoan, gia tăng các quy định về phát triển bền vững có ảnh hưởng đến hàng hóa nhập khẩu ở nhiều nước... Căng thẳng thương mại giữa các siêu cường diễn biến ngày càng phức tạp. Hợp tác quốc tế về ứng phó với biến đổi khí hậu có thể đối mặt với thách thức, rủi ro nhiều hơn. Hội nghị lần thứ 29 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP29) đã đạt được một số kết quả, song vẫn phải đối mặt với khả năng suy giảm hợp tác trong năm 2025 khi các nước lớn (như Mỹ) có thể điều chỉnh chính sách. Trong khi đó, xung đột còn diễn biến phức tạp giữa Nga-Ukraine và ở khu vực Trung Đông cũng đặt ra nhiều rủi ro, thách thức đối với môi trường đầu tư - kinh doanh toàn cầu.
Theo đó, các tổ chức quốc tế đưa ra các dự báo khác nhau về triển vọng tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2024 và năm 2025. Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD, tháng 12/2024) dự báo, tăng trưởng kinh tế thế giới có thể đạt mức 3,2% trong năm 2024 và 3,3% vào năm 2025 (tăng 0,1% dự báo cho năm 2025 so với các mức dự báo đưa ra vào tháng 9/2024). IMF (tháng 10/2024) dự báo, GDP toàn cầu sẽ tăng 3,2% trong năm 2024-2025 (giữ nguyên mức dự báo cho năm 2024 và giảm 0,1% cho năm 2025 so với các mức dự báo đưa ra vào tháng 7/2024). Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB, tháng 12/2024) dự báo, khu vực châu Á đang phát triển có thể đạt mức tăng trưởng 4,9% trong năm 2024 và đạt mức 4,8% trong năm 2025. Báo cáo của Ban hỗ trợ chính sách – Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC) tháng 11/2024 đã dự báo, tăng trưởng của khu vực APEC trong các năm 2025-2026 sẽ chậm hơn so với phần còn lại của thế giới. Đây là dự báo đáng lưu ý với khu vực APEC trong nhiều năm luôn được coi là khu vực tăng trưởng năng động của kinh tế thế giới.
Bối cảnh kinh tế trong nước
Kinh tế Việt Nam duy trì xu hướng tăng trưởng tích cực trong năm 2024, tăng trưởng quý sau cao hơn quý trước. Theo Tổng cục Thống kê, vượt qua những ảnh hưởng nặng nề của siêu bão Yagi, GDP quý III/2024 vẫn tăng 7,43% so với cùng kỳ năm 2023, sau khi tăng 5,98% trong quý I và 7,25% trong quý II. GDP quý IV/2024 tăng 7,55% so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung GDP năm 2024 tăng 7,09% so với năm 2023, chỉ thấp hơn tốc độ tăng của các năm 2018, 2019 và 2022 trong giai đoạn 2011-2024. Trong mức tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,27%, đóng góp 5,37%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8,24%, đóng góp 45,17%; khu vực dịch vụ tăng 7,38%, đóng góp 49,46%.
Sản xuất công nghiệp tiếp tục phục hồi tích cực. Năm 2024, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng 8,4% so với năm trước (năm 2023 tăng 1,3%). Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 9,6% (năm 2023 tăng 1,5%), đóng góp 8,4 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 9,5%, đóng góp 0,8 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 10,7%, đóng góp 0,2 điểm phần trăm; ngành khai khoáng giảm 6,5%, làm giảm 1,0 điểm phần trăm trong mức tăng chung.
Trong năm 2024, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ tiếp tục quan tâm chỉ đạo tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của khu vực doanh nghiệp. Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, cơ quan, địa phương trong quá trình xây dựng và ban hành chính sách cần kiến tạo môi trường thuận lợi giúp doanh nghiệp phát triển, khuyến khích cơ chế doanh nghiệp lớn hỗ trợ, thúc đẩy doanh nghiệp nhỏ và vừa để tạo ra chuỗi giá trị nội địa và phát triển ngành công nghiệp phụ trợ trong nước. Thủ tướng Chính phủ đã ký Công điện số 103/CĐ-TTg ngày 07/10/2024 về hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh trong cuối năm 2024 và những năm tiếp theo. Nhờ đó, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tháng 10/2024 đã phục hồi trở lại sau 3 tháng sụt giảm liên tiếp. Tính chung năm 2024, cả nước có hơn 157,2 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là hơn 1.547,0 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký gần 1.001,5 nghìn lao động, giảm 1,4% về số doanh nghiệp, giảm 1,8% về vốn đăng ký và giảm 5,4% về số lao động so với năm trước. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong năm 2024 đạt 9,8 tỷ đồng, giảm 0,4% so với năm 2023. Tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong năm 2024 là gần 2.025,9 nghìn tỷ đồng, tăng 3,6% so với năm 2023.
Bên cạnh đó, cả nước có gần 76,2 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động (tăng 30,4% so với năm 2023), nâng tổng số doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động trong năm 2024 lên hơn 233,4 nghìn doanh nghiệp, tăng 7,1% so với năm 2023. Bình quân một tháng có gần 19,5 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động.
Thị trường lao động, việc làm tiếp tục khởi sắc trong năm 2024. Lực lượng lao động, số người có việc làm và thu nhập bình quân tháng của người lao động đều duy trì xu hướng tăng trưởng tích cực, trong khi tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm đều giảm, công tác an sinh xã hội được đảm bảo.
Tính chung năm 2024, lao động có việc làm là 51,9 triệu người, tăng 585,1 nghìn người (tương ứng tăng 1,1%) so với năm trước. Số người thiếu việc làm trong độ tuổi lao động là 846,8 nghìn người, giảm 74,4 nghìn người so với năm trước; tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động là 1,84%, giảm 0,18 điểm phần trăm so với năm trước; trong đó tỷ lệ thiếu việc làm khu vực thành thị là 1,28%, giảm 0,32 điểm phần trăm; tỷ lệ thiếu việc làm khu vực nông thôn là 2,20%, giảm 0,07 điểm phần trăm.
Tính chung năm 2024, tỷ lệ lao động không sử dụng hết tiềm năng là 4,1%, giảm 0,2 điểm phần trăm so với năm trước. Trong đó, khu vực thành thị là 3,7% và khu vực nông thôn là 4,3%. 48% lao động không sử dụng hết tiềm năng nằm trong độ tuổi từ 15-34, điều này cho thấy Việt Nam vẫn còn một bộ phận không nhỏ lực lượng lao động tiềm năng chưa được khai thác, đặc biệt là nhóm lao động trẻ.
Về giá cả, lạm phát, trong bối cảnh thị trường hàng hóa thế giới có nhiều biến động do ảnh hưởng bởi các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội của các quốc gia, lạm phát ở Việt Nam vẫn được kiểm soát ở mức phù hợp. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân năm 2024 tăng 3,63% so với năm 2023, dưới mức mục tiêu Quốc hội đề ra trong năm 2024 là 4%-4,5%.
Trong đó, yếu tố làm tăng CPI năm 2024 bao gồm nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 4,03% so với năm trước, tác động làm CPI chung tăng 1,35 điểm phần trăm; nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng (tăng 5,2% so với năm trước, tác động làm CPI chung tăng 0,98 điểm phần trăm); Chỉ số giá nhóm giáo dục tăng 5,37% do trong năm học 2023-2024 và 2024-2025 một số địa phương đã tăng mức học phí, tác động làm CPI chung tăng 0,33 điểm phần trăm; Chỉ số giá nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 7,16%, tác động làm CPI chung tăng 0,39 điểm phần trăm do giá dịch vụ y tế được điều chỉnh theo Thông tư số 22/2023/TT-BYT từ ngày 17/11/2023 và Thông tư số 21/2024/TT-BYT từ ngày 17/10/2024 của Bộ Y tế; Chỉ số giá nhóm giao thông tăng 0,76%, tác động làm CPI chung tăng 0,07 điểm phần trăm.
Áp lực lạm phát được kiềm chế chủ yếu do lạm phát thế giới hạ nhiệt, giúp Việt Nam giảm bớt áp lực nhập khẩu lạm phát, chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa tính chung năm 2024 giảm 1,94% so với năm 2023.
Bên cạnh đó, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương tổ chức triển khai quyết liệt nhiều giải pháp để kiểm soát lạm phát theo mục tiêu Quốc hội đề ra, chẳng hạn: đảm bảo thông suốt hoạt động cung ứng, lưu thông, phân phối hàng hóa, dịch vụ; giảm mặt bằng lãi suất cho vay, ổn định thị trường ngoại hối; thúc đẩy giải ngân đầu tư công; triển khai các gói tín dụng hỗ trợ các ngành, lĩnh vực; giảm thuế giá trị gia tăng đối với một số nhóm hàng hóa và dịch vụ; giảm thuế bảo vệ môi trường đối với xăng dầu; miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, tiền sử dụng đất để hỗ trợ doanh nghiệp và người dân; tổ chức, theo dõi sát diễn biến cung cầu, giá cả thị trường các mặt hàng thiết yếu để có biện pháp điều hành phù hợp.
Về tiền tệ, trong bối cảnh tình hình thế giới nhiều biến động khó lường và hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nước gặp nhiều khó khăn, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã thực hiện đồng bộ các biện pháp nhằm ổn định lãi suất tiền gửi, phấn đấu giảm lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân để thúc đẩy sản xuất kinh doanh, tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Các ngân hàng thương mại nhà nước áp dụng lãi suất kỳ hạn 12 tháng trong khoảng từ 4,7% - 4,8%, trong khi các ngân hàng thương mại cổ phần đưa ra mức lãi suẩt cao hơn, từ 5,4% - 6,2% cho kỳ hạn dài. Tính đến ngày 15/12/2024, tín dụng tăng 13,82% so với cuối năm 2023, cho thấy khoảng cách tương đối ngắn so với mục tiêu cả năm là tăng trưởng tín dụng 15%. Ngoài tăng trưởng tín dụng, Ngân hàng Nhà nước cũng chú trọng công tác giám sát và kiểm soát nợ xấu.
Về đầu tư, trong những năm gần đây, dù vẫn chịu hậu quả từ đại dịch COVID-19 và các bất ổn kinh tế thế giới, tuy nhiên đã có những chuyển biến tích cực. Ước tính năm 2024, vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội theo giá hiện hành ước đạt 3.692,1 nghìn tỷ đồng, tăng 7,5% so với năm trước, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước đạt 1.019,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 27,6% tổng vốn và tăng 5,3%; khu vực ngoài Nhà nước đạt 2.064,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 55,9% và tăng 7,7%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 608,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 16,5% và tăng 10,6%.
Tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam tính đến ngày 31/12/2024 bao gồm: Vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 38,23 tỷ USD, giảm 3,0% so với cùng kỳ năm trước.
Vốn đăng ký cấp mới có 3.375 dự án được cấp phép với số vốn đăng ký đạt 19,73 tỷ USD, tăng 1,8% so với cùng kỳ năm trước về số dự án và giảm 7,6% về số vốn đăng ký. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo được cấp phép mới đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất với số vốn đăng ký đạt 13,44 tỷ USD, chiếm 68,1% tổng vốn đăng ký cấp mới; hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 3,72 tỷ USD, chiếm 18,8%; các ngành còn lại đạt 2,57 tỷ USD, chiếm 13,1%.
Các đối tác đầu tư lớn nhất trong năm 2024 vẫn là các đối tác truyền thống của Việt Nam. Trong số 80 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư được cấp phép mới tại Việt Nam năm 2024, Singapore là nhà đầu tư lớn nhất với 6,26 tỷ USD, chiếm 31,7% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Hàn Quốc 2,89 tỷ USD, chiếm 14,6%; Trung Quốc 2,84 tỷ USD, chiếm 14,4%; Đặc khu hành chính Hồng Công (Trung Quốc) 2,17 tỷ USD, chiếm 11,0%. Nhiều dự án lớn được đầu tư mới và mở rộng vốn trong các lĩnh vực bán dẫn, năng lượng (như sản xuất pin, tế bào quang điện, thanh silic), sản xuất linh kiện, sản phẩm điện tử, sản phẩm nhiều giá trị gia tăng.
Về thương mại, tính chung cả năm 2024, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 786,29 tỷ USD, tăng 15,4% so với năm trước. Trong đó, trị giá xuất khẩu năm 2024 đạt 405,53 tỷ USD, tăng 14,3% so với năm 2023; nhập khẩu đạt 380,76 tỷ USD, tăng 16,7% so với năm 2023. Theo đó, cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 24,77 tỷ USD.
Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam vẫn là các nhóm hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; máy móc, thiết bị và phụ tùng; hàng dệt may; gỗ và sản phẩm gỗ; điện thoại các loại và linh kiện; giày dép; hàng rau quả và cà phê… Cụ thể, trị giá xuất khẩu nhóm hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện trong năm 2024 đạt 72,5 tỷ USD, tăng 26,6% so với năm 2023; Xuất khẩu nhóm hàng dệt may đạt 37,03 tỷ USD, tăng 11,2% so với năm 2023; Trị giá xuất khẩu giày dép các loại đạt 22,87 tỷ USD, tăng 13% so với năm 2023. Việt Nam chủ yếu nhập khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện (trị giá 107,05 tỷ USD, tăng 21,7%).
Nhìn chung, bối cảnh tình hình thế giới trong năm 2024 đã có diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường cùng với các vấn đề thiên tai, thời tiết cực đoan đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của dân cư và phát triển kinh tế – xã hội của các quốc gia trong khu vực, trong đó có Việt Nam. Dù vậy, với quyết tâm phấn đấu đạt được các mục tiêu đề ra, cả năm đạt trên 7%, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt, thực hiện kịp thời các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bảo đảm ổn định vĩ mô, duy trì các cân đối lớn của nền kinh tế, ứng phó với áp lực lạm phát, tập trung tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh. Nhờ đó, GDP năm 2024 của Việt Nam tăng 7,09% so với năm 2023. Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia tăng trưởng cao nhất trên thế giới và trong khu vực.
Kết quả này cho thấy, sự nỗ lực, khả năng thích ứng và chống chịu của nền kinh tế nói chung và cộng đồng doanh nghiệp nói riêng. Nền tảng cho tăng trưởng kinh tế vẫn được duy trì, ổn định kinh tế vĩ mô được giữ vững, lạm phát được kiểm soát, cán cân thương mại thặng dư tương đối lớn. Bên cạnh đó, Việt Nam vẫn còn nhiều dư địa chính sách tài khóa, tiền tệ để ứng phó với các kịch bản tăng trưởng trong các năm tiếp theo.
Kiến nghị định hướng chính sách trong năm 2025
Bước sang năm 2025, Việt Nam cần nhận diện và xử lý hiệu quả các thách thức, vấn đề trong các tháng còn lại của năm 2024 nhằm bảo đảm thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội đề ra. Cùng với đó, Việt Nam cũng cần xác định các yêu cầu cải cách thể chế kinh tế để nhằm tạo thêm động lực cho quá trình phát triển kinh tế-xã hội, đặc biệt là gắn với việc hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng kinh tế ở mức trên 7% trên nền tảng các định hướng chuyển đổi xanh và phát triển bền vững. Cụ thể, Việt Nam cần tập trung tiếp tục cải cách nền tảng kinh tế vi mô, song song với các biện pháp kinh tế vĩ mô và một số biện pháp khác như:
Một là, tiếp tục theo dõi sát tình hình, diễn biến thị trường quốc tế và diễn biến kinh tế ở các nước đối tác, trên cơ sở đó xây dựng, cập nhật và thực thi các kịch bản phù hợp, kịp thời nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế gắn với củng cố ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn, giữ vững và tạo thêm dư địa cho điều hành chính sách kinh tế vĩ mô.
Hai là, triển khai nghiên cứu, sớm ban hành các văn bản quy định chi tiết hướng dẫn thực hiện các Luật, đặc biệt là Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản và Luật Các tổ chức tín dụng… Ban hành, sửa đổi, bổ sung các văn bản hướng dẫn nhằm tháo gỡ các vấn đề, khó khăn đối với giải ngân vốn đầu tư công; tăng cường hoạt động chỉ đạo để trực tiếp tháo gỡ khó khăn cho các bộ, ngành và địa phương để thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công; tăng cường và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ công tác đôn đốc tình hình sản xuất kinh doanh và giải ngân đầu tư công do Thủ tướng Chính phủ thành lập.
Ba là, đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế, cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực theo hướng cải thiện chất lượng tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh, đa dạng hóa, tăng cường năng lực nội tại và sức chống chịu của nền kinh tế trước những biến động khó lường của kinh tế và thương mại thế giới.
Bốn là, hoàn thiện khung chính sách, pháp lý để tận dụng cơ hội từ các mô hình kinh tế mới (như kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ, kinh tế sáng tạo...). Đẩy nhanh việc nghiên cứu, ban hành các Nghị định của Chính phủ về cơ chế thí điểm trong các lĩnh vực fintech, kinh tế tuần hoàn. Rà soát các quy định pháp lý liên quan đến các mô hình, hoạt động kinh tế ban đêm để sớm kiến nghị hướng giải quyết, tháo gỡ. Nghiên cứu ban hành Chiến lược quốc gia về phát triển kinh tế sáng tạo ở Việt Nam.
Năm là, nhận diện, ban hành khung chính sách và chuẩn bị các điều kiện thể chế, hạ tầng kỹ thuật cần thiết nhằm hình thành một hệ sinh thái hiện đại cho đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ở Việt Nam, tập trung vào các lĩnh vực dựa trên nền tảng trí tuệ nhân tạo (AI) và công nghiệp bán dẫn. Rà soát, tháo gỡ các vấn đề về chính sách cạnh tranh trong kinh tế số. Nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trong việc điều tiết các hoạt động của các tập đoàn công nghệ lớn.
Sáu là, hoàn thiện và triển khai hiệu quả khung chính sách ở tầm quốc gia nhằm cải thiện năng suất lao động, gắn với tăng kỹ năng và chuyển đổi kỹ năng cho người lao động để thích ứng với các mô hình kinh tế mới, chính thức hóa khu vực kinh tế phi chính thức, và ứng dụng hiệu quả các công nghệ mới (đặc biệt là trí tuệ nhân tạo). Tập trung xây dựng cơ chế, chính sách nhằm phát huy vai trò chủ động, sáng tạo và các sáng kiến cải thiện năng suất lao động ở khu vực công.
Bảy là, hoàn thiện khung chính sách, nâng cao năng lực thực hiện hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó nhấn mạnh những nội dung về nâng cao nhận thức của doanh nghiệp và các cơ quan chính phủ, khai thác hiệu quả ưu đãi trong các hiệp định thương mại tự do (FTA), hỗ trợ doanh nghiệp trên nguyên tắc không trái cam kết quốc tế, phát huy vai trò dẫn dắt của các doanh nghiệp lớn của Việt Nam (kể cả doanh nghiệp tư nhân) trong chuỗi cung ứng; tăng cường sự tham gia của Việt Nam ở các diễn đàn và cơ chế hợp tác kinh tế đa phương.
Tám là, chủ động trao đổi, hợp tác với các đối tác nhằm thực thi hiệu quả các FTA. Tham gia đàm phán hiệu quả về nội dung nâng cấp một số FTA hiện có của ASEAN. Tận dụng hiệu quả các điều khoản về Hợp tác và Nâng cao năng lực trong các FTA để nâng cao năng lực cho doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là thích ứng với các yêu cầu phát triển bền vững. Tiếp tục giải trình hiệu quả và vận động các đối tác công nhận quy chế kinh tế thị trường đầy đủ cho Việt Nam.
Chín là, tiếp tục rà soát nội dung cam kết trong các FTA và điều ước quốc tế mà Việt Nam đang đàm phán, đã hoàn tất đàm phán và đã ký kết để có những điều chỉnh về quy định pháp luật phù hợp; Đánh giá lại hiệu quả thực hiện hội nhập quốc tế nói riêng và các FTA nói riêng để xác định những bài học, yêu cầu điều chỉnh phù hợp.
Mười là, các cơ quan quản lý nhà nước cần tiếp tục cung cấp thông tin cho doanh nghiệp về các FTA mà Việt Nam đã đàm phán và ký kết; thông tin về các thị trường xuất nhập khẩu (đặc biệt là các đối tác FTA); hỗ trợ và hướng dẫn doanh nghiệp tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế để thực hiện hài hòa các hiệp định FTA, đặc biệt là ứng phó với các hàng rào kỹ thuật (nhất là các quy định, tiêu chuẩn mới gắn với phát triển bền vững) và rủi ro phòng vệ thương mại ở các đối tác.
Mười một, tăng cường truyền thông chính sách về các chủ trương, ưu tiên của Đảng, Nhà nước và Chính phủ về hoàn thiện các chính sách thúc đẩy chuyển đổi số, chuyển đổi xanh.