Kỹ năng cần có đối với kế toán quản trị doanh nghiệp trong bối cảnh mới


Việt Nam đang nằm trong dòng chảy chung của cuộc cách mạng số, dự báo sẽ ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực trong đó có lĩnh vực kế toán. Trong bối cảnh đó, kế toán quản trị sẽ có nhiều thay đổi. Thực tế cho thấy, ngoài kỹ năng chuyên môn, các doanh nghiệp mong đợi người làm kế toán quản trị phải am hiểu hơn về tình hình kinh doanh của doanh nghiệp, đối tác, công nghệ… để trở thành cộng sự tài chính đắc lực của doanh nghiệp. Bài viết trao đổi về những kỹ năng cần có của kế toán để thực hiện tốt công tác kế toán quản trị tại doanh nghiệp trong bối cảnh cách mạng số.

Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Ảnh minh họa. Nguồn: internet

Kế toán quản trị và những yêu cầu kỹ năng cơ bản

Theo Luật Kế toán Việt Nam sửa đổi năm 2015, kế toán quản trị (KTQT) được định nghĩa là “việc thu thập, xử lý, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính theo yêu cầu quản trị và quyết định kinh tế, tài chính trong nội bộ đơn vị kế toán”. Khác với các thông tin của kế toán tài chính chủ yếu phục vụ cho các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp (DN), thì KTQT cung cấp thông tin thỏa mãn nhu cầu của các nhà quản trị DN, là những người mà các quyết định và hành động của họ ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành bại của DN.

Trên thực tế, xuất phát điểm của KTQT là kế toán chi phí, nghiên cứu chủ yếu về quá trình tính toán giá phí sản phẩm như giá phí tiếp liệu, giá phí sản xuất; nhằm đề ra các quyết định cho phù hợp, xác định giá trị hàng tồn kho và kết quả kinh doanh theo từng hoạt động. Dần dần cùng với sự phát triển của khoa học quản lý nói chung, khoa học kế toán cũng có những bước phát triển mạnh mẽ, đặc biệt, từ năm 1957 trở lại đây, các quốc gia phát triển trên thế giới đã đi sâu nghiên cứu, áp dụng và sử dụng những thông tin kế toán phục vụ cho yêu cầu quản lý. Sự phát triển mạnh mẽ của kế toán đã đặt ra hướng nghiên cứu các công cụ kiểm soát và lập kế hoạch, thu nhận và xử lý thông tin phục vụ cho việc ra quyết định quản trị gọi là KTQT.

Như vậy, KTQT là một khoa học thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin về hoạt động sản xuất, kinh doanh một cách cụ thể, phục vụ cho các nhà quản lý trong việc lập kế hoạch, điều hành, tổ chức thực hiện kế hoạch và quản lý hoạt động kinh tế, tài chính trong nội bộ DN. KTQT không những cung cấp thông tin cho các nhà quản trị cấp cao để ra quyết định kinh doanh, quyết định đầu tư và sử dụng các nguồn lực mà còn cung cấp cả các thông tin về các mặt kỹ thuật để các nhà quản lý thừa hành sử dụng thực thi trách nhiệm của mình.

Với tính chất, ý nghĩa của KTQT trong hoạt động của DN, vai trò chủ yếu của nhân viên KTQT trong một tổ chức là thu thập và cung cấp thông tin thích hợp và nhanh chóng cho các nhà quản lý để họ thực hiện việc điều hành, kiểm soát hoạt động của tổ chức và ra quyết định. Thông qua các thông tin hữu ích do KTQT cung cấp, các nhà quản lý sản xuất thường xây dựng kế hoạch và ra quyết định về các phương án và lịch trình sản xuất, các nhà quản lý tiếp thị xây dựng các quyết định về quảng cáo, khuyến mãi và định giá sản phẩm, các nhà quản trị tài chính tham gia xây dựng các quyết định về huy động vốn và đầu tư.

Từ yêu cầu đó, các nhân viên KTQT phải am hiểu các tình huống ra quyết định của các nhà quản lý. Đây cũng chính là lý do từ quan điểm ban đầu về người làm KTQT chỉ là nhân viên kế toán chi phí làm việc trong bộ phận kế toán của DN, ngày nay quan điểm về người làm KTQT đã vượt ra khỏi phạm vi của bộ phận kế toán. Người làm KTQT có thể làm việc ở các bộ phận khác nhau trong DN, họ cũng có thể ở rất nhiều cấp độ khác nhau hoặc các bộ phận khác trong DN. Do vậy, thực tiễn cũng đòi hỏi những kỹ năng khác nhau từ KTQT.

Liên quan đến những kỹ năng cần có đối với KTQT tài chính chuyên nghiệp, theo khảo sát mới nhất của Hiệp hội KTQT Toàn cầu về nhu cầu của DN với các phẩm chất và kỹ năng cần có của KTQT, cán bộ tài chính ở các cấp độ hoạt động và quản lý trong tổ chức, các phẩm chất và kỹ năng cần có trong bối cảnh hiện nay, cụ thể:

Một là, kỹ năng chuyên môn: Đây là những kỹ năng "cứng", cơ bản mà các chuyên viên KTQT, tài chính cần có cho đặc thù công việc và ngành của mình như: Phân tích báo cáo tài chính, kế toán và quản trị chi phí, lập kế hoạch và kiểm soát, lập và phân tích báo cáo quản trị, tài chính DN và quản trị nguồn ngân sách, quản lý rủi ro và kiểm soát nội bộ, thuế và hệ thống thông tin kế toán… Kỹ năng chuyên môn đòi hỏi cần được đào tạo bài bản tại các trường đại học hoặc các lớp đào tạo nâng cao kiến thức.

Hai là, kỹ năng kinh doanh: Các kỹ năng kinh doanh bao gồm lập kế hoạch chiến lược và kiểm soát việc thực hiện chiến lược, phân tích và đánh giá môi trường vĩ mô và các tác động của chúng lên tổ chức, quản trị hệ thống và hoạt động, quản lý các mối quan hệ và quản lý dự án và am hiểu về môi trường luật pháp và tác động lên DN. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng quyết liệt với sự bùng nổ của công nghệ số, nhà quản trị tài chính chuyên nghiệp ngày nay cần thêm kỹ năng kinh doanh để giúp họ có thêm sự nhạy bén và dễ dàng thích ứng nhanh với sự thay đổi của trị trường.

Kỹ năng cần có đối với kế toán quản trị doanh nghiệp trong bối cảnh mới - Ảnh 1

Ba là, kỹ năng con người: Kỹ năng con người được xem như một trong những kỹ năng hết sức quan trọng và cần thiết giúp cho người làm KTQT, tài chính phát huy hết năng lực và hỗ trợ hiệu quả cho DN. Kỹ năng con người bao gồm năng lực mở rộng vòng tròn ảnh hưởng của mình lên người khác và tổ chức, kỹ năng đàm phán và thương lượng, kỹ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề, giao tiếp, thuyết trình, xây dựng các mối quan hệ và làm việc theo nhóm… Kỹ năng con người đòi hỏi sự rèn luyện, đúc rút từ kinh nghiệm làm việc và thể hiển chỉ số thông minh cảm xúc của mỗi cá nhân. Kỹ năng con người đã được vào khung năng lực của Hiệp hội KTQT Toàn cầu dành cho KTQT và tài chính chuyên nghiệp như một trong 4 kỹ năng có mức độ quan trọng tương đương nhau.

Bốn là, kỹ năng lãnh đạo: Kỹ năng lãnh đạo không chỉ dành cho các giám đốc tài chính hay các nhà sáng lập DN. Mỗi cá nhân có thể thể hiện năng lực lãnh đạo và thực hiện vai trò lãnh đạo của mình trong nhóm làm việc và tổ chức. Đó là các kỹ năng hướng dẫn và cố vấn đồng nghiệp, dẫn dắt làm tăng hiệu quả hoạt động dần tới mục tiêu, quản trị sự thay đổi và năng lực động viên và truyền cảm hứng…

 Bên cạnh đó, theo các chuyên gia, thời công nghệ số, KTQT cần có thêm một số kỹ năng sau:

Một là, kỹ năng ứng dụng công nghệ số: Ứng dụng công nghệ số là một trong những tiêu chí mới đối với người KTQT tài chính. Do đó, trong thời đại công nghệ số, KTQT cần ứng dụng thành thạo các thành tựu công nghệ vào hoạt động, trong đó, ít nhất là việc ứng dụng trong việc lập các báo cáo, nhằm biến những con số tài chính vô hồn thành những những con số biết nói, dễ hiểu… thông qua các cách thức thể hiện với nhiều hiệu ứng hấp dẫn nhờ công nghệ mang lại.

Hai là, kỹ năng hoạch định chiến lược: Người làm KTQT chiến lược là những người không chỉ nắm rõ về hoạt động sản xuất kinh doanh của DN mà phải là những người hiểu rõ về thị trường nơi mà DN tham gia với những đối thủ cạnh tranh và nhóm khách hàng tiềm năng. Trên cơ sở đó, KTQT chiến lược có thể tham gia vào hoạch định chiến lược phát triển của DN, đảm bảo tạo được lợi thế cạnh tranh và đạt được hiệu quả tài chính trong dài hạn theo đúng các mục tiêu chiến lược do Ban lãnh đạo DN đề ra.

Ngoài các vấn đề liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh, người làm KTQT phải cung cấp đầy đủ thông tin cho các nhà quản trị về giá trị cổ đông (giá trị cổ phiếu mà họ đang nắm giữ) để nhà quản trị có những quyết định dài hạn đối với cổ phiếu của mình. Người làm KTQT chiến lược được coi như một thành viên tham gia quản trị, điều hành DN.

Một số đề xuất, kiến nghị

Hệ thống thông tin KTQT trong DN có nhiệm vụ cung cấp thông tin cho các nhà quản lý. KTQT có bốn mục tiêu chủ yếu như sau: Cung cấp thông tin cho nhà quản lý để lập kế hoạch và ra quyết định; Trợ giúp nhà quản lý trong việc điều hành và kiểm soát hoạt động của DN; Thúc đẩy các nhà quản lý đạt được các mục tiêu của DN; Đo lường hiệu quả hoạt động của các nhà quản lý và các bộ phận, đơn vị trực thuộc trong DN. Những nhiệm vụ đó của KTQT phần nào cho thấy tầm quan trọng của người làm công tác KTQT trong DN không hề lép vế so với kế toán tài chính, dù hiện nay, tại hầu hết các DN Việt Nam, kế toán tài chính vẫn thường được coi trọng hơn.

Theo quan niệm truyền thống, kế toán được ví như người chép sử với đơn thuần ghi nhận lại các giao dịch và lập báo cáo tài chính. Những phẩm chất cần có của người kế toán được liệt kê chủ yếu bao gồm kiến thức chuyên môn, kiến thức tin học để có thể sử dụng các phần mềm kế toán, khả năng ngoại ngữ… Trên tất cả các kỹ năng trên, DN đánh giá cao vai trò của việc tuân thủ các chuẩn mực về đạo đức nghề nghiệp, tính liêm chính và chuyên nghiệp của các cá nhân bởi đây là đặc điểm nghề hết sức đặc trưng, là nền tảng căn bản để đảm bảo sự phát triển ổn định bền vững của DN và sự nghiệp của mỗi cá nhân…

Người làm KTQT đang chứng kiến một xu thế mới trong ngành kế toán trước sự thay đổi của khoa học công nghệ. Trước đây, các kế toán viên thường dành 80% -90% thời lượng công việc cho các nghiệp vụ kế toán hàng ngày như: Ghi chép sổ sách, đối chiếu giao dịch, lập sổ, theo dõi và quản lý tồn kho, định khoản, lập báo cáo tài chính… hiện nay, với sự ra đời các phần mềm kế toán, các ứng dụng tài chính, các phần mềm như CRM, ERP đã giúp tiết kiệm rất nhiều thời gian cho các kế toán viên tài chính.

Một xu thế mới đang dần hình thành khi nghề kế toán gắn với quản trị thông tin tài chính. Các kế toán viên sẽ dành nhiều thời gian cho việc phân tích, lập kế hoạch, dự toán, dự báo, lập ngân sách hoặc đưa ra các thông tin hỗ trợ, tham mưu cho ban lãnh đạo DN về KTQT. Xu hướng này dẫn đến vai trò của KTQT ngày càng quan trọng hơn trong các DN, thay thế dần kế toán tài chính trước đây. Vai trò của kế toán tài chính sẽ thu hẹp lại, do đó chủ DN sẽ cần những người làm KTQT có thể tham mưu cho Ban lãnh đạo để quản trị DN tốt nhất.

Nói cách khác, trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0 và cách mạng số đang tác động mạnh mẽ đến hầu hết các lĩnh vực kinh tế - xã hội thì các yêu cầu về kỹ năng đặt ra đối với người KTQT cũng sẽ nhiều hơn và khắt khe hơn. Theo đó, những phẩm chất, kỹ năng đó cần phải đáp ứng được các yêu cầu phục vụ cho hoạt động kinh doanh của DN vốn luôn thay đổi nhanh chóng. Do đó, ngoài kỹ năng chuyên môn, các DN yêu cầu KTQT cần phải am hiểu hơn về tình hình kinh doanh của DN, về đối tác kinh doanh, khách hàng nội bộ, về mối quan hệ giữa các bộ phận trong DN... để trở thành cộng sự tài chính đắc lực cho DN.