Lọc dầu Dung Quất công bố lợi nhuận tăng mạnh trước thềm IPO
Tiếp sau một loạt thương vụ IPO thành công trong quá khứ, trong thời gian tới, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN) sẽ tiếp tục tiến hành IPO một loạt tổng công ty lớn phụ trách các mảng kinh doanh quan trọng gồm PV Power, Lọc hoá dầu Bình Sơn và PV Oil.
Trong đó, Lọc hoá dầu Bình Sơn (BSR) - công ty chủ quản của Nhà máy Lọc dầu Dung Quất là cái tên được quan tâm hơn cả khi có quy mô vốn lớn, tỷ lệ thoái vốn cao cũng như là "hàng hiếm” trong ngành. Trong bối cảnh nhiều doanh nghiệp dầu khí gặp khó khăn do tác động của giá dầu, BSR vẫn có được hiệu quả kinh doanh khả quan.
Cuối tháng 5/2017, Bộ Công thương đã chốt giá trị doanh nghiệp của BSR tại thời điểm ngày 31/12/2015 đạt xấp xỉ 72.880 tỷ đồng, tương đương khoảng 3,2 tỷ USD.
Trong đó giá trị thực tế phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp là hơn 44.934 tỷ đồng (xấp xỉ 2 tỷ USD). Dự kiến BSR sẽ được IPO vào cuối năm 2017.
Bên cạnh mục tiêu cổ phần hoá, BSR cũng đang chuẩn bị triển khai dự án trọng điểm nâng cấp mở rộng nhà máy lọc dầu Dung Quất. Dự án này có tổng mức đầu tư lên đến 1,81 tỷ USD, dự kiến sẽ hoàn thành vào năm 2021 và chính thức hoạt động từ năm 2022.
Sau khi hoàn thành, công suất chế biến dầu thô của Nhà máy dự kiến sẽ đạt 8,5 triệu tấn/năm và chất lượng sản phẩm đầu ra đáp ứng tiêu chuẩn EURO V. Bên cạnh đó, độ linh động lựa chọn dầu thô của Công ty sẽ được nâng cao, không còn phụ thuộc vào nguồn dầu thô từ mỏ Bạch Hổ.
Tài hình tài chính khoẻ mạnh
Tính đến cuối năm 2016, tổng tài sản của BSR đạt hơn 61.300 tỷ đồng và dự kiến sẽ tăng mạnh trong những năm tới khi triển khai dự án Nâng cấp mở rộng.
Ban lãnh đạo công ty cho biết, cơ cấu tài sản trong giai đoạn 2013-2016 thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng tài sản dài hạn, giảm tỷ trọng tài sản ngắn hạn. Phần lớn sự thay đổi này đến từ việc quy mô vốn lưu động sụt giảm do giá dầu thô nguyên liệu giảm mạnh.
Nợ vay cũng liên tục giảm xuống do trả dần các khoản nợ gốc vay dài hạn. Nếu như năm 2010, năm BSR tiếp nhận nhà máy, dư nợ vay lên đến 41.400 tỷ đồng, thì đến hết quý II/2017, nợ vay chỉ còn 13.600 tỷ đồng.
Với việc nợ gốc vay dài hạn giảm dần đã làm giảm đáng kể chi phí lãi vay. Cụ thể: năm 2016, tổng lãi vay mà BSR phải chi trả là 605 tỷ đồng, giảm 63% so với năm 2011. Và trong 6 tháng năm 2017, lãi vay giảm tiếp 18% so với cùng kỳ 2016.
Các chỉ số về thanh toán cũng đều nằm trong ngưỡng an toàn và có xu hướng tăng qua các năm cho thấy khả năng thanh toán các khoản nợ của Công ty ngày càng tốt.
Tính đến cuối quý II/2017, số dư tiền và các khoản tương đương tiền của BSR đạt 15.179 tỷ đồng, chiếm 28% tổng tài sản. Lượng tiền lớn cùng với dòng tiền hoạt động kinh doanh giúp BSR đáp ứng nhu cầu trả nợ, đảm bảo khả năng thanh toán, đầu tư mở rộng sản xuất.
Lợi nhuận nửa đầu năm 2017 tương đương 85% cả năm 2016
Kết quả lợi nhuận sau thuế của Công ty năm 2015, 2016 và 6 tháng 2017 lần lượt là 6.170 tỷ đồng, 4.492 tỷ đồng và 3.832 tỷ đồng, tương ứng với ROE lần lượt là 21%, 14% và 11,6%.
Như vậy lợi nhuận trong 6 tháng đầu năm 2017 của BSR đã tương đương với 85% lợi nhuận của cả năm 2016.
Theo lý giải của BSR, lợi nhuận năm 2016 sụt giảm là do giá dầu giảm, cơ chế thu điều tiết theo Quyết định số 952/QĐ-TTg không còn phù hợp trong bối cảnh mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt để thực hiện các Hiệp định thương mại tự do thấp hơn nhiều so với mức thuế suất thuế nhập khẩu đang áp dụng cho Công ty để tính giá bán và tính thu điều tiết đã làm cho giá bán sản phẩm Dung Quất cao hơn nhiều so với hàng nhập khẩu và làm cho sản phẩm của Công ty gặp khó khăn trong tiêu thụ, do đó làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh so với năm 2015.
Năm 2017, Quyết định số 952/QĐ-TTg đã được sửa đổi theo hướng Công ty được tự quyết định giá bán, do đó giá bán sản phẩm của Dung Quất có tính linh hoạt hơn, điều này làm cho sản phẩm của Dung Quất cạnh tranh hơn so với trước đây và làm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh trong năm 2017.
Song song với nâng cao hiệu quả hoạt động, BSR cũng chú trọng công tác quản lý chi phí, giá thành và áp dụng các sáng kiến cải tiến kỹ thuật tập trung vào công tác tiết kiệm năng lượng, tối ưu hoá điều kiện vận hành.