Mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam: Thực trạng và sự lựa chọn cho thời gian tới

PGS., TS. Quách Đức Pháp

TCTC Online - Việc sử dụng bàn tay hữu hình của Nhà nước trong tăng trưởng kinh tế ở thời kỳ đầu đất nước còn chưa phát triển là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thắng lợi to lớn trong 1/4 thế kỷ đổi mới ở nước ta. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra hôm nay là cần tỉnh táo để suy xét tìm ra cách thức mới cho sự tăng trưởng cao hơn ở giai đoạn tiếp theo, phù hợp với tình hình thế giới đã có nhiều thay đổi.

Lựa chọn mô hình tăng trưởng thời kỳ hậu khủng hoảng

Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội trong một thời gian nhất định, thường là một năm. Đó cũng là sự tăng lên về quy mô GDP ở một quốc gia của năm sau so với năm trước.

Mô hình tăng trưởng kinh tế, có thể hiểu một cách nôm na, đó là cách thức tổ chức huy động và sử dụng các nguồn lực để đảm bảo có sự tăng trưởng về kinh tế qua các năm, với một tốc độ hợp lý. “Cách thức” nói ở đây là rất đa dạng, bao gồm cả đầu vào (là gia công, sản xuất, chế biến hay dịch vụ là chủ yếu); đầu ra (hướng nội hay hướng ngoại là chủ yếu); phát triển các vùng, miền, các loại hình doanh nghiệp, tập đoàn; sự phối hợp giữa Nhà nước và thị trường trên từng lĩnh vực… Lựa chọn theo cách nào, áp dụng mô hình nào là tùy thuộc vào điều kiện, đặc điểm, tình hình cụ thể ở mỗi nước trong mối quan hệ với thế giới đương đại và được quyết định bởi ý chí chủ quan của lãnh đạo mỗi nước.

Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu diễn ra năm 2008-2009 vừa gây thiệt hại, và làm suy thoái về kinh tế, vừa làm bộc lộ rõ những khuyết tật về mô hình tăng trưởng và về cơ cấu kinh tế của thế giới và trong từng nước. Qua cuộc khủng hoảng này đã nổi lên nhiều ý kiến khác nhau về các mô hình tăng trưởng kinh tế hiện hữu. Trên hết là có nhiều ý kiến phê phán mô hình tăng trưởng kinh tế theo chủ nghĩa tự do mới, họ cho rằng không thể thiếu bàn tay hữu hình của Nhà nước và nếu phó mặc cho thị trường tự điều chỉnh thì sớm muộn  gì cũng dẫn đến tự phát và đổ vỡ. Trước những khó khăn của việc đẩy mạnh xuất khẩu, một số nước ở châu Á đã hướng vào thị trường trong nước để duy trì tăng trưởng kinh tế, nên cũng đã có ý kiến chỉ trích mô hình tăng trưởng kinh tế hướng về xuất khẩu. Các học thuyết về tăng trưởng kinh tế được mang ra soi xét như một cách tìm ra lối thoát để chống suy giảm kinh tế.

Trong tình hình như vậy, một thực tế đã và đang diễn ra là cả thế giới, trước hết là các nền kinh tế lớn như Mỹ, Nhật Bản, châu Âu đang tìm cách thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng mang tính hệ thống hiện nay để tìm đường chuyển sang một thời kỳ phát triển mới, khác trước. Đặc biệt là Mỹ đã có sự  thay đổi phương châm mang tính chiến lược, từ nhập khẩu và tiêu dùng, sang xuất khẩu và tiết kiệm. Trong bối cảnh đó, rõ ràng Việt Nam đang ở vào tình thế vừa phải thích nghi với bối cảnh thế giới mới đang cạnh tranh quyết liệt hơn so với trước, vừa phải tự mình tìm con đường phù hợp hơn để chuyển sang một giai đoạn phát triển mới để có thể đứng vững và tiếp tục phát triển đi lên. Vậy Việt Nam lựa chọn mô hình nào cho sự tăng trưởng kinh tế trong thời gian tới?

Trước hết cần nhìn lại chính mình trong thực tại cũng như thời gian đã qua. Những gì chúng ta đã làm trong 25 năm đổi mới vừa qua có thể giúp ta tự đánh giá và rút ra bài học thiết thực và bổ ích. Vào những năm chín mươi của thế kỷ trước, trong điều kiện là nước kém phát triển thu nhập đầu người chỉ ở mức hơn 200 USD một năm, lại trong tình thế khủng hoảng của cả hệ thống, thì việc tập trung mọi nguồn lực vào Nhà nước  để tăng trưởng là đúng; việc tập trung sự tăng trưởng vào kinh tế quốc doanh là cần thiết. Điều đó phù hợp với nguyên lý chung là những gì mà nhân dân chưa có điều kiện làm thì Nhà nước phải làm như một sự mở đường để tạo điều kiện ban đầu cho nhân dân tự làm. Việc thu hút mạnh mẽ các lực lượng đầu tư trực tiếp nước ngoài  cũng hết sức cần thiết, vừa góp phần thúc đẩy tăng trưởng về kinh tế, vừa góp phần củng cố và nâng cao vị thế của nước ta trong cộng đồng quốc tế và từng bước hội nhập kinh tế với các nước trong khu vực và thế giới. Rõ ràng những việc làm đúng thì bao giờ cũng mang lại kết quả cụ thể. Cùng với việc thoát hiểm để trụ vững, nước ta đã bước lên hàng của những nước có mức thu nhập trung bình, bình quân đầu người đạt trên 1000 USD một năm. Việt Nam là một trong số các nước đạt kết quả cao trong xóa đói giảm nghèo và có đời sống kinh tế phát triển khá, xã hội ổn định. Có thể thấy việc sử dụng bàn tay hữu hình của Nhà nước trong tăng trưởng kinh tế ở thời kỳ đầu đất nước còn chưa phát triển là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thắng lợi to lớn trong 1/4 thế kỷ đổi mới ở nước ta. Thực tế ấy cũng đã củng cố thêm niềm tin trong khá nhiều người, cho rằng nếu không có lực lượng kinh tế quốc doanh, nếu không dựa chủ yếu vào các tập đoàn kinh tế của Nhà nước thì làm sao có thể vượt qua khó khăn, hiểm nghèo để phát triển được như hôm nay?

Tuy nhiên, vấn đề đặt ra hôm nay là cần tỉnh táo để suy xét tìm ra cách thức mới cho sự tăng trưởng cao hơn ở giai đoạn tiếp theo, phù hợp với tình hình thế giới đã có nhiều thay đổi. Không nên bằng lòng với những kết quả tăng trưởng kinh tế hiện nay; cũng không nên coi những lời khen ngợi mang nặng tính ngoại giao đối với nước ta là những điều hoàn toàn đúng để yên tâm duy trì các cách thức tăng trưởng như đã có. Đơn giản chỉ là những việc làm đúng với ngày hôm qua thì chưa hẳn đã đúng với ngày hôm nay vì bối cảnh hôm nay đã khác hẳn so với hôm qua. Do đó nếu duy trì cách thức như đã làm của ngày hôm qua thì rất có thể lại đưa đến kết quả ngược lại, không theo như mong đợi.

Những hạn chế trong mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện nay

Đi vào thực chất của vấn đề thì phải thấy rằng những gì chúng ta coi là thành tích chỉ mới là so sánh giữa kết quả của chúng ta hôm nay với kết quả của chúng ta hôm qua và cũng chỉ trên số tương đối (% vốn chỉ là chỉ tiêu có tính hai mặt, dễ bị cường điệu hóa). Nếu đem so sánh kết quả đạt được của chúng ta hôm nay với các nước trong khu vực, trên cả mặt số lượng và chất lượng tăng trưởng thì sẽ thấy rõ hơn, thực chất hơn về những nguy cơ hiện hữu và tiềm ẩn trong mô hình tăng trưởng kinh tế của nước ta hiện nay. Đó là:

- Chất lượng tăng trưởng của nước ta ngày càng thấp. Chất lượng tăng trưởng thể hiện ở chỉ số ICOR và sự gia tăng thu nhập giữa các tầng lớp dân cư ở các vùng miền trong cả nước. Xét về chỉ số ICOR, nhiều số liệu đã tính toán cho thấy: năm 2006 là khoảng 5, năm 2007 là hơn 5,2, năm 2008 là gần 7 và năm 2009 là 8, trong khi ở các nước trong khu vực, kể cả Trung Quốc, thì trong cùng thời gian chỉ số này đều dưới 4. Những con số này cho thấy nguy cơ là tăng trưởng kinh tế ở nước ta đắt hơn nhiều lần so với các nước và đang có xu hướng ngày càng đắt thêm lên. Như vậy làm sao có thể trụ vững trong thế giới cạnh tranh ngày càng khốc liệt hơn. Nói nôm na là chúng ta đi buôn nhưng đều mua đắt, bán rẻ thì tất yếu dẫn đến mất vốn, nói gì đến lãi. Xét về sự gia tăng thu nhập giữa các tầng lớp dân cư ở các vùng miền trong cả nước thì càng thấy nguy cơ về sự ổn định xã hội hiện nay là khó bền vững. Tăng trưởng kinh tế chỉ bền vững khi nó mang lại thu nhập ổn định cho đại bộ phận dân nghèo ở khắp các vùng miền trong cả nước. Thu nhập bình quân chung của cả nước thì có tăng qua các năm, nhưng nếu so sánh mức thu nhập của 20% số người có thu nhập cao với mức thu nhập của 20% số người có thu nhập thấp trong cả nước thì con số này ở nước ta hiện nay không dưới 20 lần, là khá cao và đang có xu hướng tăng lên. Một thực tế nữa là tuy đứng vào hàng đầu của các quốc gia xuất khẩu gạo, nhưng không phải ở nước ta đã không còn những mảnh đời đói khổ do không có thu nhập. Đây là nguy cơ chính dễ dẫn đến mất ổn định nhất.

- Chất lượng cuộc sống ngày càng xuống cấp thể hiện khá rõ trên những lĩnh vực chủ yếu như giáo dục, y tế, ách tắc giao thông, ô nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội đã đến mức báo động và đang có xu hướng tăng cao.

- Thu chi NSNN ngày càng thâm hụt lớn. Thu chi NSNN là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh chất lượng và sự bền vững của mô hình tăng trưởng kinh tế. Thâm hụt Ngân sách ở nước ta từ năm 2000 đến nay trung bình là trên 5% GDP/năm, năm 2009 là gần 7% và dự kiến năm 2010 chưa xuống dưới 6,5%. Nợ Chính phủ đã lên tới khoảng 40% GDP. Một đặc điểm nổi lên trong thu, chi NSNN là trong suốt 25 năm đổi mới vừa qua, thu NSNN năm nào cũng hoàn thành vượt mức kế hoạch đề ra, số thu năm sau đều tăng cao so số thu năm trước, có năm tăng tới gần 30% như năm 2006, 2007. Nhưng chi ngân sách còn tăng cao hơn nên thâm hụt ngày càng lớn và chưa có hướng bù đắp cho đủ.

- Nhập siêu ngày nghiêm trọng và chưa có dấu hiệu dừng lại. Trong suốt 25 đổi mới hầu như nước ta luôn luôn nhập siêu. Nhập siêu giai đoạn trước năm 2005 bình quân gần 5 tỷ đô la Mỹ một năm, nhưng đến năm 2007 đã tăng gấp hơn 2 lần, với mức trên 12 tỷ USD, năm 2008 nhập siêu gần 20 tỷ USD. Trong đó nhập siêu lớn nhất lại từ các nước Châu Á, là các nước có công nghệ thấp.

- Với mô hình hiện nay thì càng tăng trưởng thì lại càng có nhiều ách tắc và mất cân đối lớn. Những ách tắc lớn nhất mà ở tầm quốc gia chúng ta đã nhận xét, đánh giá là: hạ tầng cơ sở yếu kém chưa tạo thuận lợi cho đầu tư phát triển, kể cả ở thành thị, nông thôn và miền núi, nguồn nhân lực đông đảo nhưng kỹ năng, tay nghề kém, không đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển trước mắt và lâu dài; thể chế kinh tế còn nhiều yếu kém, chưa tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư. Với những ách tắc cơ bản đó, nhiều nguy cơ đã được cảnh báo từ trước chẳng những không được đẩy lùi mà còn có xu hướng gia tăng, như nguy cơ chệch hướng, tụt hậu, tham nhũng lãng phí và diễn biến hòa bình

Khắc phục những khiếm khuyết của mô hình tăng trưởng kinh tế hiện nay như thế nào?

Phân tích trên cho thấy trong mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện nay có nhiều khiếm khuyết mang tính hệ thống. Theo chúng tôi, để khắc phục nhưng hạn chế này cần tập trung vào mấy điểm chính sau đây:

+ Phải thực sự cởi trói, mở cửa, phát huy mọi nguồn lực của đất nước cho đầu tư phát triển, chấn hưng đất nước. Muốn vậy, có hai điểm quan trọng, một là trong mọi chủ trương phát triển kinh tế - xã hội phải đặt tiêu chí năng suất, chất lượng, hiệu quả lên trên hết. Ai xin làm cũng được, miễn là phải năng suất, chất lượng, hiệu quả thì mới mang lại tăng trưởng thực sự. Ngay cả với những lĩnh vực mà trước đây hay đề cao vai trò của hiệu quả xã hội, như giáo dục, y tế, văn hóa, kể cả từ thiện… cũng phải coi trọng hiệu quả về kinh tế thì mới có hiệu quả xã hội thực sự. Hai là chủ trương nói trên phải được thể chế hóa thành pháp luật cụ thể thì mới vận hành được trong cơ chế thị trường.

+ Phải cải cách một cách căn bản lĩnh vực thu – chi NSNN. Thu NSNN không nên vượt quá chỉ tiêu mà các Đại hội Đảng đã rất cân nhắc và quyết định là vào khoảng 21-22% GDP. Với số dân ngày một tăng lên và mức thu nhập còn thấp so với các nước, mức động viên vào NSNN không thể tới 1/4 số GDP làm ra hàng năm. Có như vậy mới khuyến khích tinh thần hăng say lao động và mới tạo điều kiện cho nhân dân tiết kiệm để đầu tư. Chi NSNN trước hết tập trung vào vấn đề an sinh xã hội để khắc phục kịp thời mặt trái của kinh tế thị trường đang trực tiếp tác động tới phần lớn nhân dân có thu nhập thấp đang dễ bị tổn thương, nhất là ô nhiễm môi trường nặng như hiện nay. Một phần quan trọng của chi NSNN là khẩn trương cải cách chế độ tiền lương để tạo tiền đề cho cải cách hành chính; để tạo điều kiện cho việc khôi phục lại lòng tự trọng, tính nhân văn và tinh thần trách nhiệm, ý chí cách mạng trong số đông cán bộ, bộ đội, công nhân, trí thức và người lao động trên mặt trận đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực. Hạn chế đến mức thấp nhất việc lấy NSNN để cấp vốn cho doanh nghiệp, để đầu tư phát triển kinh tế.

+ Phải tập trung sức và đổi mới lĩnh vực thể chế đường lối phát triển kinh tế ở nước ta. Chủ trương đường lối nhất quán của Đảng ta là “ dân giàu , nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh: và Nhà nước ta là “Nhà nước của dân, do dân và vì dân” cho nên nhiệm vụ cốt yếu của bộ máy nhà nước của nước ta trong thời gian tới là đổi mới cách thức ban hành một hệ thống luật pháp phù hợp với tình hình mới, nhằm vào việc thực hiện các mục tiêu nói trên. Trong đó chú trọng vấn đề đồng bộ, kịp thời, nhất quán và nhằm vào khắc phục những khiếm khuyết của thời gian qua như vấn đề sở hữu, vấn đề thành phần kinh tế, vấn đề đầu tư và thu hút đầu tư, vấn đề đất đai, tài nguyên, vấn đề lao động và việc làm. Đây là vấn đề hết sức quan trọng nhằm biến thách thức thành cơ hội, phát huy lợi thế của nước đi sau là tranh thủ tận dụng những thành quả của nhân loại về mọi mặt, trong đó có khoa học và công nghệ. Rõ ràng ai cũng thấy yếu tố quan trọng cho sự phát triển của một quốc gia trong thời đại ngày nay không phụ thuộc nhiều vào những gì đã có, mà phụ thuộc chủ yếu vào cách thức lựa chọn mô hình tăng trưởng phù hợp với lợi thế riêng có để vươn lên khỏi cái bẫy thu nhập trung bình như đã thấy ở nhiều nước.

Với những phân tích trên, chúng tôi tin rằng thể chế kinh tế thị trường có chất lượng cao sẽ là mô hình lựa chọn cho tăng trưởng kinh tế ở nước ta trong các thập niên sắp tới./.