Một số cơ chế, chính sách cấp thiết nhằm thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh, phục hồi kinh tế do tác động của đại dịch COVID-19
Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 bùng phát lần thứ tư, tác động tiêu cực đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã luôn đồng hành, sát cánh với Chính phủ, kịp thời ban hành các Nghị quyết làm cơ sở pháp lý cho phép Chính phủ áp dụng ngay các biện pháp đặc biệt, đặc thù, đặc cách đáp ứng yêu cầu phòng, chống dịch và phục hồi kinh tế - xã hội. Từ yêu cầu của thực tiễn, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã có bài viết quan trọng gợi mở và yêu cầu các cơ quan của Quốc hội, Chính phủ tiếp tục phối hợp chặt chẽ, xây dựng một số cơ chế, chính sách cấp thiết nhằm thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh, phục hồi kinh tế do tác động của đại dịch COVID-19. Xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết này.
Đại dịch COVID-19 có những diễn biến rất phức tạp và khó lường. Tại Việt Nam, đợt bùng phát dịch lần thứ tư do biến thể Delta lây lan nhanh gây tác động lớn đến mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội, hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và người dân khi lan rộng ra hầu hết các tỉnh, thành phố, đặc biệt là tại TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bắc Giang, Bắc Ninh, Bình Dương, Đồng Nai…, nơi tập trung đông dân cư, khu công nghiệp, khu chế xuất và các doanh nghiệp lớn. Vì vậy, cần ban hành những cơ chế, chính sách cấp thiết, lộ trình phù hợp nhằm thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động sản xuất, kinh doanh, phục hồi kinh tế do tác động của đại dịch COVID-19.
Tổng quan về tác động của đại dịch COVID-19 đến hoạt động sản xuất, kinh doanh
Năm 2020, Việt Nam là một trong những nền kinh tế trên thế giới duy trì được đà tăng trưởng, nhưng tăng trưởng kinh tế chỉ đạt 2,91%, thấp nhất trong giai đoạn 2011 - 2020; tốc độ tăng trưởng GDP 6 tháng đầu năm 2021 chỉ đạt 5,64%, thấp hơn mục tiêu đề ra. Mặc dù được cải thiện đáng kể so với cùng kỳ năm 2020 (1,82%), nhưng vẫn chưa hồi phục được tốc độ tăng như cùng kỳ các năm 2018 và 2019 (7,05% và 6,77%). Thu hút vốn đầu tư phát triển của khu vực ngoài nhà nước và khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt thấp. Đầu tư của khu vực ngoài nhà nước năm 2020 chỉ tăng 3,1%, 6 tháng đầu năm 2021 chỉ tăng 7,4% so với cùng kỳ. Tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam năm 2020 giảm 25% so với năm 2019, trong 6 tháng đầu năm 2021 giảm 2,6%. Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm tăng. Năm 2020, tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi là 2,48% (năm 2019 là 2,17%), tỷ lệ thiếu việc làm là 2,51% (năm 2019 là 1,5%). Trong quý II-2021, tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thiếu việc làm của lao động lần lượt là 2,4% và 2,6%, đều tăng so với quý I-2021 (2,19% và 2,2%).
Những con số trên phản ánh rõ tình hình hoạt động rất khó khăn của các doanh nghiệp. Năm 2020, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới giảm 2,3% so với năm 2019; số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể và hoàn tất thủ tục giải thể tăng 13,9%. Phần lớn các doanh nghiệp phải tạm ngừng kinh doanh và đã giải thể hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ; những doanh nghiệp quy mô lớn rút lui khỏi thị trường nhiều hơn. Trong 8 tháng đầu năm 2021, so với cùng kỳ, số doanh nghiệp thành lập mới giảm 8% về số doanh nghiệp, giảm 7,5% về vốn đăng ký và giảm 13,8% về số lao động so với cùng kỳ năm trước; tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế giảm 17%; số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động giảm 0,6%. Doanh nghiệp bị ảnh hưởng trên diện rộng, đáng kể nhất là với các doanh nghiệp siêu nhỏ và doanh nghiệp nhỏ. Hoạt động sản xuất, kinh doanh của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, tổ hợp tác (sau đây gọi tắt là hợp tác xã) bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Hơn 90% số hợp tác xã giảm doanh thu và lợi nhuận; lao động bị cắt giảm, nghỉ việc không lương chiếm hơn 50% tổng số lao động. Quỹ tín dụng nhân dân gặp khó khăn.
Khu vực công nghiệp và thương mại, dịch vụ có tốc độ tăng trưởng thấp trong năm 2020, thấp nhất trong các năm 2011 - 2020. Khu vực công nghiệp chỉ tăng 3,36%, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo chỉ tăng 5,82%. Khu vực thương mại, dịch vụ tăng 2,34%, chỉ bằng khoảng 1/3 tốc độ tăng trưởng của năm 2019, trong đó dịch vụ lưu trú và ăn uống giảm 14,68%, dịch vụ vận tải, kho bãi giảm 1,88%. Trong 6 tháng đầu năm 2021, do tác động của các đợt giãn cách xã hội tại một số địa phương, khu vực dịch vụ tiếp tục tăng trưởng thấp, chỉ đạt 3,96% so với cùng kỳ năm 2020; ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống tiếp tục giảm sâu (5,12%), dịch vụ vận tải và kho bãi giảm 0,39%. Doanh thu du lịch lữ hành năm 2020 chiếm 0,3% tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng, giảm 59,5% so với năm trước; 6 tháng đầu năm 2021 giảm 51,8% so với cùng kỳ năm trước. Các cơ sở giáo dục và đào tạo ngoài công lập các cấp thành lập mới năm 2020 giảm 9,5% so với cùng kỳ, số lượng doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn tăng 89,6%, số lượng doanh nghiệp giải thể tăng 32,8%; trong 6 tháng đầu năm 2021, số lượng doanh nghiệp quay trở lại hoạt động giảm 0,2%.
Lĩnh vực kinh doanh bất động sản chịu ảnh hưởng mạnh ở phân khúc nhà ở xã hội, nhà ở thương mại giá thấp, văn phòng cho thuê, bất động sản du lịch, nghỉ dưỡng; xu hướng dịch chuyển kênh đầu tư sang thị trường bất động sản khiến thị trường sôi động hơn ở các phân khúc khác nhưng lại dẫn đến tình trạng sốt đất, đầu cơ đất, nhiễu loạn thông tin quy hoạch đất, nhất là khu vực vùng ven các đô thị lớn, gây nguy cơ “bong bóng tài sản” và rủi ro kinh tế vĩ mô.
Hoạt động tiêu thụ các mặt hàng nông sản, thủy sản tươi/đông lạnh và có tính thời vụ cao bị ảnh hưởng lớn; có tình trạng giá nông sản giảm tại chỗ, ứ đọng hàng cục bộ nhưng giá bán nông sản tới người tiêu dùng trong nước không giảm. Một số ngành, lĩnh vực khác chịu ảnh hưởng lớn thời kỳ đầu bùng phát dịch bệnh bao gồm dệt may và sản xuất da, các sản phẩm từ da, điện tử tiêu dùng, sản xuất, lắp ráp ô-tô...
Đánh giá chung về các cơ chế chính sách đã ban hành ứng phó với tác động của đại dịch COVID-19 đến hoạt động sản xuất kinh doanh
Để tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh, phục hồi kinh tế, Bộ Chính trị, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, giải pháp với tổng thể các biện pháp nhằm kịp thời ứng phó với dịch bệnh(1).
Nhìn chung, những chính sách, giải pháp đã ban hành có sự kết hợp giữa chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ và các chính sách hỗ trợ ngành hoặc an sinh xã hội khác, trong đó bao gồm nhóm giải pháp ngắn hạn, cơ chế, chính sách trong một số ngành, lĩnh vực cụ thể, nhóm giải pháp căn cơ, dài hạn để tháo gỡ khó khăn cho tăng trưởng kinh tế, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp; cơ bản phù hợp diễn biến và tác động của dịch bệnh, tương đồng với cách tiếp cận mới của nhiều quốc gia trên thế giới, được người dân và cộng đồng doanh nghiệp đánh giá cao.
Các chính sách được thực hiện với chi phí thấp, do vậy không gây ảnh hưởng đến các cân đối lớn của nền kinh tế, đồng thời bảo lưu dư địa để tiếp tục xây dựng, thực hiện các giải pháp trong giai đoạn tiếp theo. Kết quả, đã góp phần quan trọng giúp ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, giúp Việt Nam đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế dương trong năm 2020, duy trì triển vọng kinh tế tích cực của đất nước trong trung và dài hạn và củng cố niềm tin của người dân, doanh nghiệp vào các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Nguyên nhân chủ yếu do đại dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, khó dự báo, biến chủng Delta lây lan nhanh, gây sức ép lớn về thời gian và khối lượng công việc ban hành các chính sách hỗ trợ. Một số cơ chế, chính sách chưa bảo đảm tính tổng thể, chưa bao quát hết được tính chất, quy mô, mức độ khẩn cấp như đại dịch COVID-19. Năng lực dự báo, cơ sở dữ liệu còn yếu, trong khi năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều bất cập, hạn chế.
Một số cơ chế, chính sách cấp thiết nhằm thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động sản xuất, kinh doanh, phục hồi kinh tế
Một là, kiểm soát tốt tình hình dịch bệnh là điều kiện tiên quyết, mang tính cốt lõi để khôi phục kinh tế và giảm thiểu tổn thất do đại dịch gây ra. Cần quyết tâm cao hơn nữa trong việc thực hiện các biện pháp nhằm kiểm soát và đẩy lùi đại dịch COVID-19, nhất là tại khu vực động lực, thành phố lớn, các địa phương có nhiều khu công nghiệp. Đẩy mạnh chiến lược tiêm vắc xin, sử dụng tổng hợp mọi nguồn lực để sớm có đủ vắc xin phòng COVID-19 tiêm miễn phí cho toàn dân, phấn đấu đạt tỷ lệ tiêm chủng 70% tổng dân số trong thời gian sớm nhất; ban hành danh sách các địa phương, ngành, lĩnh vực được ưu tiên bố trí nguồn vắc xin để chính quyền địa phương và doanh nghiệp, hợp tác xã, người dân chủ động kế hoạch duy trì hoạt động kinh tế - xã hội, sản xuất, kinh doanh. Sớm có cơ chế hướng dẫn, tạo điều kiện tối đa và nhanh chóng cho doanh nghiệp nhập khẩu vắc xin bảo đảm chất lượng, mua máy móc, trang thiết bị phòng, chống dịch. Thực hiện việc công nhận hộ chiếu vắc xin với các nước; duy trì hiệu quả, cập nhật thường xuyên hệ thống thông tin, dữ liệu về tiêm vắc xin phòng COVID-19 để tăng cường phòng bị, bảo đảm an toàn xã hội. Phân bổ, sử dụng có hiệu quả số tiền huy động từ các nguồn lực xã hội ủng hộ cho phòng, chống dịch COVID-19 theo các cuộc vận động do Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động; đẩy nhanh tiến độ giải ngân Quỹ vắc xin phòng COVID-19.
Hai là, nâng cao nhận thức về bối cảnh “bình thường mới”, khả năng dịch COVID-19 còn tồn tại trong một thời gian dài và tiếp tục tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế - xã hội ngay cả khi tỷ lệ tiêm vắc-xin trong nước đạt 100%. Trong các thách thức cho giai đoạn tiếp theo, lưu ý thách thức: rủi ro về lạm phát đến từ tác động của các gói kích thích kinh tế ứng phó đại dịch COVID-19 của nhiều quốc gia; tình trạng đứt gãy chuỗi cung ứng và đình trệ sản xuất, suy thoái toàn cầu vẫn chưa thể khắc phục ngay trong thời gian tới; nguy cơ suy giảm dòng vốn đầu tư trong và ngoài nước; các hàng rào kỹ thuật cao hơn trong bối cảnh các quốc gia mở cửa giao thương hậu COVID-19 có xu hướng ưu tiên các quốc gia, khu vực kiểm soát được dịch bệnh...
Ba là, áp dụng các biện pháp nhất quán, đồng bộ, thống nhất từ Trung ương đến địa phương để duy trì cả cung và cầu trên thị trường, duy trì sản xuất, cung ứng, lưu thông, vận chuyển hàng hóa, ổn định thị trường tiêu dùng trong nước. Kiên trì mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô; duy trì ổn định thị trường tài chính, tiền tệ. Phối hợp chặt chẽ, điều hành linh hoạt giữa chính sách tiền tệ, chính sách tín dụng với chính sách tài khóa và chính sách an sinh xã hội trên tinh thần tận dụng tối đa và hiệu quả các nguồn lực. Trên phương diện kinh tế, quan điểm chung là hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, người dân thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh sẽ phục vụ trực tiếp cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế, ổn định đời sống xã hội. Chính vì vậy, hỗ trợ phải quyết liệt, mạnh mẽ, liên tục, thông suốt, công khai, minh bạch, đúng đối tượng, kịp thời, dễ tiếp cận; quy mô hỗ trợ phải tương xứng với ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh; điều kiện, tiêu chuẩn các gói hỗ trợ phải khả thi; các quy trình, thủ tục để hưởng hỗ trợ phải được đơn giản hóa tối đa; đồng thời, có cơ chế giám sát, kiểm tra sát sao việc thực hiện và chế tài xử lý để tránh lợi dụng, trục lợi chính sách. Trường hợp vượt thẩm quyền, kịp thời báo cáo và trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành các chính sách cần thiết nhằm tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện duy trì sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế theo quy định tại Nghị quyết số 30/2021/QH15, ngày 28/7/2021. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, tiếp tục chỉ đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách theo Nghị quyết số 63-NQ/CP, Nghị quyết số 68/NQ-CP và các văn bản có liên quan, nhất là những chính sách mới (như hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ kỹ năng nghề, giảm mức đóng bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, giảm cước viễn thông...). Thường xuyên nắm bắt tình hình triển khai, tiến hành tổng kết, đánh giá về tính hiệu quả, khả thi, xác định những vướng mắc, bất cập để kịp thời điều chỉnh, bảo đảm các chính sách được thực hiện đầy đủ, đáp ứng mục tiêu đã đề ra nhằm duy trì niềm tin xã hội. Có biện pháp bảo đảm vận chuyển, lưu thông hàng hóa thông suốt, hiệu quả, khắc phục chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị bị gián đoạn: Tổ chức thực hiện luồng xanh vận tải; ban hành quy tắc phân loại chống dịch COVID-19 áp dụng thống nhất trên phạm vi cả nước, tránh tình trạng địa phương hóa quá mức, gây cản trở hoạt động của doanh nghiệp; đánh giá đầy đủ tính khả thi, hiệu quả của các mô hình “một con đường, hai điểm đến”, “một cung đường, các điểm đến”, “ba tại chỗ” và các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện các mô hình này... Tăng cường phổ biến, tuyên truyền, phát huy vai trò của các hiệp hội cung cấp thông tin, hướng dẫn đầy đủ, thực hiện tư vấn, hỗ trợ, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp, hợp tác xã, người dân tiếp cận được các gói hỗ trợ đã ban hành.
Thứ hai, tiếp tục nghiên cứu, sớm ban hành các chính sách hỗ trợ các đối tượng chịu ảnh hưởng tiêu cực của đại dịch COVID-19 theo hướng làm rõ đối tượng, lĩnh vực phù hợp tình hình thực tiễn và các quan điểm, chiến lược về phòng, chống dịch, mục tiêu phục hồi kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội trong từng giai đoạn, như: Giảm thuế thu nhập doanh nghiệp bảo đảm đúng mục tiêu, trúng đối tượng là những doanh nghiệp, hợp tác xã đang giảm hoặc không có lợi nhuận do tác động tiêu cực của dịch bệnh, mang lại hiệu quả thiết thực, mở rộng đối tượng là doanh nghiệp có quy mô siêu nhỏ, nhỏ và vừa; tiếp tục thực hiện và mở rộng đối tượng được gia hạn nộp thuế và tiền thuê đất; tiếp tục giảm tiền, gia hạn thời hạn nộp tiền thuế tiêu thụ đặc biệt với ô-tô sản xuất hoặc lắp ráp trong nước; bổ sung chính sách giảm thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh trong các lĩnh vực chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch COVID-19 bảo đảm mục tiêu giảm giá bán hàng hóa, dịch vụ, giảm chi phí đầu vào cho các lĩnh vực kinh doanh khác, bảo đảm người tiêu dùng là đối tượng được hưởng lợi, tránh tình trạng doanh nghiệp không giảm giá bán hàng hóa, dịch vụ để trục lợi từ chính sách; bổ sung chính sách miễn tiền chậm nộp phát sinh trong năm 2020 và năm 2021 ảnh hưởng trực tiếp bởi dịch COVID-19 đối với tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh phát sinh lỗ; hỗ trợ kinh phí xét nghiệm cho doanh nghiệp; mở rộng đối tượng được giảm tiền điện và giảm giá điện để hỗ trợ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh; thực hiện giảm tiền ký quỹ cho doanh nghiệp du lịch; xem xét chính sách hỗ trợ về mặt bằng sản xuất, kinh doanh; miễn phí bảo trì đường bộ; điều chỉnh tăng thời hạn kiểm định xe; xây dựng phương án hỗ trợ chung cho doanh nghiệp hàng không; cho phép giãn, hoãn nợ phải trả đối với doanh nghiệp vay xây dựng nhà ở xã hội, nhà ở thương mại có giá bán dự kiến dưới 25 triệu đồng/m2 và các dự án bất động sản du lịch; xem xét nới lỏng thêm các yêu cầu về quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại; tiếp tục triển khai gói hỗ trợ lãi suất cho vay đối với chủ thể thực hiện hoạt động sản xuất, kinh doanh; giảm mức đóng kinh phí công đoàn từ 2% quỹ lương xuống còn 1% quỹ lương cho các doanh nghiệp; cho doanh nghiệp bố trí thời gian làm thêm của người lao động hơn 40 giờ/tháng để giải quyết các công việc gấp, tồn đọng; có chính sách hỗ trợ phí, cước vận chuyển đường hàng không và đường biển đối với các thị trường trọng điểm (Mỹ, châu Âu, Trung Đông) để tăng năng lực cạnh tranh và giảm chi phí giá thành cho doanh nghiệp; sớm mở lại đường bay đi/đến các quốc gia được coi là an toàn với COVID-19, tạo điều kiện cho hoạt động giao thương và góp phần phục hồi kinh tế; hoàn thiện quy trình nhập cảnh mới, tạo luồng xanh nhập cảnh cho các chuyên gia vào Việt Nam vận hành sản xuất, kinh doanh; rà soát, bổ sung, quy định rõ các chính sách hỗ trợ hợp tác xã... Triển khai đánh giá kết quả phát triển kinh tế - xã hội những tháng đầu năm, dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2022 hướng tới hoàn thành các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2025.
Thứ ba, khẩn trương nghiên cứu, xây dựng chương trình phục hồi và phát triển kinh tế khả thi. Nghiên cứu ban hành hoặc đề xuất ban hành các chính sách tài khóa, tiền tệ và an sinh xã hội mang tính dài hạn cho giai đoạn 2021 - 2025 nhằm kích thích nền kinh tế hơn là đơn thuần hỗ trợ (cho phép cơ cấu lại những khoản vay, tiếp tục giãn nợ, giảm, miễn một số loại thuế, phí, lệ phí, miễn và giãn thời gian áp dụng một số quy định gia tăng chi phí cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, giảm lãi suất cho vay, cho vay mới, bổ sung vốn lưu động để giúp doanh nghiệp, hợp tác xã khôi phục hoạt động sản xuất, kinh doanh, kích cầu nội địa...); Chính phủ nghiên cứu ban hành Nghị quyết về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp giai đoạn 2021 - 2025 và sớm ban hành Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2021 - 2025 bảo đảm đồng bộ, thống nhất, tối ưu hóa nguồn lực, tránh dàn trải, trùng lặp; chỉ đạo triển khai các chương trình hỗ trợ bảo đảm hiệu quả, khả thi. Thúc đẩy thực hiện các chính sách tổng thể về cải cách thể chế, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, cắt giảm chi phí cho doanh nghiệp, tạo động lực mới cho tăng trưởng kinh tế; cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, nâng cao năng lực tự chủ của nền kinh tế phù hợp với những thay đổi sau đại dịch; tăng cường huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, đẩy mạnh xây dựng, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng chiến lược đồng bộ, hiện đại; thúc đẩy xuất, nhập khẩu, phát triển thương mại hài hòa, bền vững; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo lập và đầu tư vào chương trình giáo dục các kỹ năng cần thiết cho công việc ở “thị trường tương lai” nhằm tạo ra một nền kinh tế Việt Nam năng động, sẵn sàng đón nhận xu hướng chuyển dịch chuỗi cung ứng. Trong đó, cần quan tâm những nội dung sau:
- Tổ chức thực hiện nghiêm các quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Tích cực triển khai thi hành các luật có liên quan nhằm thúc đẩy hoạt động sản xuất, kinh doanh. Bảo đảm tiến độ hoàn thiện dự án Luật Đất đai (sửa đổi). Đẩy nhanh tiến độ trình dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về thuế hoặc sửa đổi toàn diện các luật về thuế. Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, rà soát văn bản quy phạm pháp luật để phát hiện những nội dung mâu thuẫn, chồng chéo, bất cập, không còn phù hợp với thực tiễn, qua đó khẩn trương xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật, đáp ứng yêu cầu khai thông điểm nghẽn, hỗ trợ, thúc đẩy hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh. Nhanh chóng hoàn thiện Hồ sơ dự án Luật sửa đổi, bổ sung các luật để tháo gỡ khó khăn cho đầu tư, kinh doanh trong tình hình dịch COVID-19 trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định theo quy định của pháp luật. Tiếp tục cắt giảm, đơn giản hóa điều kiện kinh doanh, thủ tục hành chính, các quy định không cần thiết, không hợp lý, cản trở hoạt động sản xuất, kinh doanh của các tổ chức, cá nhân. Trong năm 2021, tổng kết kết quả thực hiện toàn bộ các nghị quyết, quyết định, chỉ thị về cải thiện môi trường kinh doanh, cắt giảm chi phí để từ đó xây dựng Chương trình tổng thể về cải cách thể chế, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và yêu cầu cơ cấu lại nền kinh tế, phục hồi kinh tế hậu COVID-19.
Chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ lập các quy hoạch giai đoạn 2021 - 2030 theo quy định của Luật Quy hoạch, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; hoàn thiện hồ sơ Quy hoạch sử dụng đất quốc gia giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và Kế hoạch sử dụng đất giai đoạn 2021 - 2025 trình các cấp có thẩm quyền; sớm trình Quốc hội xem xét, thông qua Quy hoạch tổng thể quốc gia và Quy hoạch không gian biển quốc gia.
- Có các giải pháp tháo gỡ tập trung vào những ngành, lĩnh vực mang tính “dẫn dắt”, đối tượng, khu vực đóng góp đáng kể vào ngân sách nhà nước, tạo lượng lớn việc làm cho người lao động, có tác động lan tỏa, lâu dài, đang tạo nên dư địa tăng trưởng mới cho nền kinh tế, kịp thời đón đầu nhu cầu của thế giới đang dần mở cửa sau đại dịch thay vì dàn trải nguồn lực. Xây dựng Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021 - 2025 trên cơ sở phân tích tác động trên quy mô ngành, lĩnh vực đến từ đại dịch COVID-19, trình Quốc hội xem xét, quyết định.
- Nhanh chóng hoàn thiện và tổ chức thực hiện có hiệu quả Đề án cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2021 - 2025.
- Không chủ quan với nhiệm vụ kiểm soát lạm phát; kiểm soát chặt chẽ dòng vốn đầu tư vào thị trường chứng khoán và bất động sản. Tiếp tục theo dõi sát mặt bằng lãi suất thị trường để điều hành phù hợp; xử lý hài hòa, hợp lý mối quan hệ giữa lợi nhuận của các ngân hàng với khó khăn của doanh nghiệp về lãi suất vay, thực hiện định hướng biên độ lãi ròng (NIM) phù hợp. Tích cực triển khai các biện pháp xử lý nợ xấu, kiểm soát, hạn chế nợ xấu mới phát sinh đồng thời với việc triển khai các giải pháp tạo điều kiện cho hệ thống tổ chức tín dụng cơ cấu lại nợ, giãn nợ hỗ trợ sản xuất, kinh doanh.
- Chú trọng các giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân, kinh tế số, kinh tế xanh, hỗ trợ các doanh nghiệp, hợp tác xã tăng tốc độ chuyển đổi số, đổi mới mô hình kinh doanh, đổi mới công nghệ. Đẩy mạnh thực hiện Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 và Chiến lược quốc gia về phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam đến năm 2030. Khuyến khích đầu tư mạo hiểm, các hoạt động nghiên cứu và phát triển trong khu vực tư nhân. Tạo dựng nền tảng vững chắc cho phát triển thương mại điện tử với ba yếu tố có tính chất quyết định là logistic, thanh toán điện tử và an ninh mạng. Khẩn trương ban hành văn bản quản lý nhà nước để tạo cơ sở cho việc triển khai trên thực tế các mô hình kinh doanh mới, sản phẩm kinh doanh mới, tiền điện tử, dịch vụ ngân hàng điện tử, công nghệ tài chính (FinTech)... Chú trọng đào tạo nguồn nhân lực số, nhân lực có kỹ năng, trình độ chuyên môn kỹ thuật cao để đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động. Nâng cao năng lực kỹ thuật số cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp siêu nhỏ. Phủ rộng internet, thuê bao di động nhiều hơn tới người dân, đặc biệt là miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Minh bạch hóa các quy tắc, quy định về quản lý dữ liệu. Nghiên cứu chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp khoa học, công nghệ.
- Tiếp tục thúc đẩy triển khai các dự án đầu tư công, tập trung cho các dự án lớn, quan trọng, phát triển hạ tầng trọng điểm, có sức lan tỏa, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là các dự án liên vùng, các dự án nhằm phòng, chống và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu và thảm họa thiên nhiên, các dự án chuyển đổi số quốc gia.
- Có các chính sách khuyến khích tiêu dùng nội địa, tăng cường công tác thông tin tuyên truyền hưởng ứng Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Sớm ban hành Nghị định quy định cách xác định sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam, sản phẩm, hàng hóa sản xuất tại Việt Nam.
- Tập trung phát triển mạnh thị trường trong nước, thực hiện có hiệu quả các giải pháp kích thích tiêu dùng nội địa, tập trung kích cầu một số ngành, lĩnh vực như du lịch, bán lẻ, vận tải, lưu trú, ăn uống.
- Thường xuyên theo dõi, cập nhật, đánh giá tình hình và dự báo xu hướng thương mại quốc tế. Triển khai có hiệu quả Kế hoạch thực thi các hiệp định thương mại tự do nhằm đẩy mạnh xuất khẩu, nhất là các thị trường còn nhiều dư địa, các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và hiệp định thương mại tự do mới ký kết hứa hẹn tạo ra những thay đổi lớn trong định hình chuỗi cung ứng; tận dụng cơ hội từ các xu hướng kinh tế thế giới, đồng thời chủ động ứng phó với các ảnh hưởng tiêu cực bởi cạnh tranh thương mại và xung đột thương mại.
- Có giải pháp ứng phó với hệ lụy từ làn sóng người lao động di chuyển khỏi các tỉnh, thành phố lớn: Hỗ trợ cho doanh nghiệp thu hút lực lượng lao động quay trở lại nơi làm việc tại các khu công nghiệp, thành phố lớn hậu COVID-19 để khôi phục năng lực sản xuất; đồng thời, các địa phương chủ động xây dựng phương án giải quyết việc làm cho người lao động trở về địa phương chưa sẵn sàng quay lại các khu công nghiệp, thành phố lớn do tâm lý e ngại đại dịch còn diễn biến phức tạp, chú trọng vấn đề an ninh, trật tự, tránh những bất ổn về xã hội.
- Nghiên cứu xây dựng các quy trình ứng phó một cách tự động cho những trường hợp khẩn cấp với các ngưỡng định tính và định lượng để có thể “kích hoạt”, triển khai ngay khi có khủng hoảng, đại dịch hay các thảm họa khác./.
------------------
(1) Như: Kết luận số 77-KL/TW, ngày 5/6/2020, Kết luận số 07-KL/TW, ngày 11/6/2021, của Bộ Chính trị; Nghị quyết số 116/2020/QH14 ngày 19/6/2020, Nghị quyết số 30/2021/QH15, ngày 28/7/2021, Nghị quyết số 124/2020/QH14 ngày 11/11/2020, của Quốc hội; Nghị quyết số 268/NQ-UBTVQH15 ngày 6/8/2021 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Nghị quyết số 42/NQ-CP ngày 9/4/2020, Nghị quyết số 154/NQ-CP ngày 19/10/2020, Nghị quyết số 84/NQ-CP ngày 29/5/2020, Nghị quyết số 63/NQ-CP, ngày 29/6/2021, Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 1/7/2021, của Chính phủ; cùng nhiều nghị quyết, quyết định, nghị định, thông tư, văn bản khác theo thẩm quyền.