Nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng nguồn lực dự trữ quốc gia đến năm 2030


Dự thảo Chiến lược phát triển dự trữ quốc gia (DTQG) đến năm 2030 đã được Bộ Tài chính trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Văn bản số 87/TTr-TCDT ngày 20/4/2022. Theo đó, trong dự thảo Chiến lược đã đề ra mục tiêu đến năm 2030 nâng cao hiệu quả quản lý, huy động, sử dụng nguồn lực DTQG; Xây dựng lực lượng DTQG có quy mô đủ mạnh, cơ cấu hợp lý, danh mục mặt hàng chiến lược, thiết yếu để sẵn sàng, chủ động đáp ứng kịp thời, hiệu quả các mục tiêu DTQG và các nhiệm vụ được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao... Để đạt được các mục tiêu này, dự thảo Chiến lược đã đề ra các nhiệm vụ, giải pháp thực hiện cụ thể.

Trong giai đoạn 2010 - 2020, ngành DTNN đã thực hiện xuất cấp hàng hóa trị giá khoảng 15.445 tỷ đồng.
Trong giai đoạn 2010 - 2020, ngành DTNN đã thực hiện xuất cấp hàng hóa trị giá khoảng 15.445 tỷ đồng.

Mở đầu

Ngày 21/3/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 368/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược tài chính đến năm 2030; trong đó đã đề ra một số mục tiêu, nhiệm vụ đối với lĩnh vực DTQG.

Theo đó, giai đoạn 2021 - 2030, ưu tiên bố trí ngân sách nhà nước (NSNN) để tăng cường tiềm lực DTQG, phù hợp với khả năng của NSNN để sẵn sàng ứng phó hiệu quả trong các tình huống đột xuất, cấp bách và hoàn thành tốt các nhiệm vụ được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao.

Bên cạnh đó, Chiến lược đề ra một số giải pháp như: Hoàn thiện khung khổ pháp lý về quản lý, điều hành hoạt động DTQG; tăng cường DTQG đủ mạnh, có cơ cấu hợp lý, chủ động đáp ứng các nhu cầu đột xuất, cấp bách của nền kinh tế; thúc đẩy xã hội hóa và thu hút nguồn lực ngoài NSNN cho hoạt động DTQG.

Tập trung dự trữ các mặt hàng chiến lược, thiết yếu, có giá trị kinh tế cao, tần suất sử dụng nhiều, mặt hàng trong nước chưa sản xuất được để chủ động ứng phó kịp thời trong các tình huống khẩn cấp, đảm bảo quốc phòng, an ninh và thực hiện các nhiệm vụ được giao.

Đồng thời, rà soát, điều chỉnh, bổ sung những mặt hàng chiến lược, thiết yếu, cần thiết hoặc loại bỏ những mặt hàng không còn phù hợp ra khỏi danh mục hàng DTQG. Đẩy mạnh và hiện đại hóa ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động quản lý nội bộ và quản lý hàng DTQG; tin học hóa quy trình, nghiệp vụ nhập, xuất, bảo quản hàng DTQG.

Triển khai nhiệm vụ được Bộ Tài chính giao, thời gian qua, cùng với việc tham gia xây dựng Chiến lược tài chính đến năm 2030, Tổng cục Dự trữ Nhà nước DTNN (Bộ Tài chính) đã phối hợp với các bộ, ngành quản lý hàng DTQG và các cơ quan có liên quan tổng kết, đánh giá việc thực hiện Chiến lược phát triển DTQG đến năm 2020 (được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 2091/QĐ-TTg ngày 28/12/2012). Từ đó làm cơ sở để xây dựng nội dung Chiến lược phát triển DTQG đến năm 2030 trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Tình hình thực hiện Chiến lược phát triển dự trữ quốc gia đến năm 2020

Những kết quả đạt được

Tổng kết, đánh giá việc thực hiện Chiến lược phát triển DTQG đến năm 2020 cho thấy những kết quả tích cực gồm: (i) Hệ thống chính sách, pháp luật về DTQG được thể chế ở khung pháp lý cao nhất đó là Luật DTQG (được Quốc hội thông qua năm 2012).

Triển khai Luật DTQG, Chính phủ đã ban hành 3 Nghị định hướng dẫn thi hành Luật; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các Quyết định về chức năng, nhiệm vụ của DTNN, Quyết định phê duyệt Quy hoạch, Chiến lược, Quy chế để quản lý, điều hành hoạt động DTQG.

Bộ Tài chính cũng đã ban hành gần 40 Thông tư hướng dẫn các hoạt động DTQG. Nhìn chung, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về DTQG đã được ban hành đầy đủ, kịp thời, đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ, qua đó tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ được giao.

(ii) Quy mô DTQG đã từng bước được phát triển và củng cố, đến cuối năm 2020, tổng mức DTQG tăng gấp 1,25 lần năm 2015 và gấp khoảng 1,7 lần so với năm 2010 đã góp phần tạo sự chủ động cho Chính phủ trong việc quản lý, điều hành, xuất cấp, sử dụng hàng DTQG.

(iii) Nguồn lực DTQG được quản lý và sử dụng cơ bản đáp ứng kịp thời, hiệu quả các nhiệm vụ phát sinh của Ngành. Trong giai đoạn 2010 - 2020, ngành DTNN đã thực hiện xuất cấp hàng hóa trị giá khoảng 15.445 tỷ đồng, trong đó xuất cấp khoảng 1.038.000 tấn gạo, trị giá trên 10.000 tỷ đồng.

Hàng DTQG xuất cấp luôn đủ về số lượng, đảm bảo chất lượng, phân bổ đúng mục đích, đối tượng góp phần ổn định đời sống, sản xuất của nhân dân các vùng bị thiên tai, dịch bệnh.

(iv) Danh mục hàng DTQG đã được rà soát, sắp xếp phù hợp, đáp ứng yêu cầu công tác quản lý DTQG, đã loại bỏ khỏi danh mục một số mặt hàng có thời hạn bảo quản ngắn, công nghệ lạc hậu, không còn phù hợp như xe phát thanh lưu động (của Đài Tiếng nói Việt Nam), dầu hỏa, hạt giống bông (của Bộ Công Thương)…

(v) Công tác quản lý DTQG tại các bộ, ngành đã được thực hiện đúng quy định, từ việc bố trí cơ quan quản lý DTQG chuyên trách tại Bộ Tài chính, tại các bộ, ngành tuy bố trí cán bộ quản lý DTQG kiêm nhiệm nhưng am hiểu về lĩnh vực DTQG.

(vi) Công tác quản lý chất lượng và bảo quản hàng DTQG được quan tâm, tăng cường; hàng DTQG được bảo quản theo đúng quy chuẩn kỹ thuật.

Hệ thống kho DTQG từng bước được đầu tư xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp sửa chữa các kho và thực hiện thuê kho bảo quản của các doanh nghiệp theo quy hoạch được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt để phục vụ cho công tác bảo quản hàng DTQG, sẵn sàng xuất cấp đáp ứng mục tiêu DTQG.

Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ vào lĩnh vực DTQG giúp cho công tác điều hành hoạt động DTQG được vận hành linh hoạt, nhanh chóng, bảo mật, đáp ứng yêu cầu chỉ đạo, điều hành, quản lý DTQG.

Một số tồn tại, hạn chế

Bên cạnh kết quả đạt được trên, việc thực hiện Chiến lược phát triển DTQG đến năm 2020 cũng gặp phải một số tồn tại sau:

Một là, tổng mức DTQG còn thấp so với mục tiêu Chiến lược đã đề ra.

Hai là, danh mục chi tiết và phân công cơ quan quản lý còn tồn tại một số bất cập, nhiều mặt hàng còn dàn trải, nhỏ lẻ, bảo quản đã lâu không có nhu cầu xuất cấp, sử dụng; một số bộ, ngành tuy được Chính phủ phân công quản lý hàng DTQG nhưng chưa được bố trí kinh phí mua tăng hàng DTQG, làm giảm hiệu quả, hiệu lực, tính đa dạng của DTQG.

Ba là, mức dự trữ một số mặt hàng thiết yếu đến năm 2020 chưa đạt được mục tiêu đề ra như: Lương thực, hàng phục vụ quốc phòng, an ninh, mặt hàng xăng dầu, một số mặt hàng vật tư, nông nghiệp (hạt giống cây trồng, hóa chất sát trùng...).

Bốn là, nguồn vốn đầu tư bố trí để xây dựng hệ thống kho DTQG giai đoạn 2010 - 2020 còn thấp (đạt 21% so với quy hoạch phê duyệt); nguồn vốn bố trí cho cải tạo, sửa chữa kho còn hạn chế, việc đầu tư chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu nhập, xuất, bảo quản hàng DTQG.

Năm là, mặc dù công tác xã hội hóa DTQG đã được quy định tại Luật DTQG, tuy nhiên quá trình thực hiện còn hạn chế, chưa huy động được nguồn lực để phát triển DTQG theo mục tiêu đề ra. Những tồn tại, hạn chế trên là do cả nguyên nhân khách quan và chủ quan.

Cụ thể, nguyên nhân khách quan là do giai đoạn 2010 - 2020, NSNN gặp nhiều khó khăn, việc cân đối chi cho DTQG còn tùy thuộc vào cân đối chung của NSNN, chưa được bố trí theo định hướng đề ra (theo tỷ lệ % GDP), dẫn đến mức bố trí NSNN chi cho mua tăng các mặt hàng thiết yếu, chiến lược còn thấp. Do đó, tổng mức DTQG so với GDP rất thấp, chưa đạt được mức dự trữ quy định.

Nguyên nhân chủ quan là do việc thực hiện kế hoạch 5 năm và hàng năm tại nhiều bộ, ngành chưa kịp thời, dẫn tới lượng hàng hóa nhập kho trong năm còn thấp; làm giảm hiệu lực, hiệu quả của việc quản lý, điều hành hoạt động DTQG.

Việc rà soát danh mục hàng DTQG tại các bộ, ngành chưa được thường xuyên. Công tác xã hội hóa hoạt động DTQG chưa được các cấp, các ngành quan tâm, dẫn tới chưa huy động được nguồn lực xã hội hóa cho DTQG...

Bài học kinh nghiệm

Một số bài học kinh nghiệm có thể rút ra từ việc thực hiện Chiến lược phát triển DTQG đến năm 2020 như:

Một là, cần phải có nguồn lực DTQG đủ mạnh, cơ cấu hợp lý, bố trí ở các khu vực, địa bàn chiến lược trong cả nước để chủ động, sẵn sàng đáp ứng mục tiêu của DTQG và các nhiệm vụ khác được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao.

Hai là, xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch DTQG 5 năm và hàng năm phải dựa trên nhu cầu thực tiễn nhiệm vụ được giao; đồng thời phù hợp với khả năng cân đối NSNN để cấp có thẩm quyền có cơ sở bố trí nguồn lực nhằm chủ động, linh hoạt và ứng phó nhanh với những tình huống đột xuất, cấp bách xảy ra.

Ba là, trong chỉ đạo, điều hành cần chủ động, linh hoạt, sáng tạo, phát huy tối đa sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ DTQG được giao.

Bốn là, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành quản lý hàng DTQG với các bộ, ngành, địa phương trong việc huy động và sử dụng nguồn lực DTQG để ứng phó trước những tình huống đột xuất cấp bách xảy ra.

Năm là, giữ vững kỷ luật, kỷ cương tài chính - NSNN và DTQG; tăng cường thanh tra, kiểm tra, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý, điều hành hoạt động DTQG.

Hướng tới xây dựng lực lượng dự trữ quốc gia đủ mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới

Trong những năm tới, vấn đề biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh được dự báo còn tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường và có thể tác động đến kinh tế toàn cầu, làm thay đổi cấu trúc, trật tự kinh tế của nhiều quốc gia, dẫn đến nhiều vấn đề nảy sinh như an ninh lương thực, gia tăng đói nghèo, chất lượng cuộc sống và sức khỏe người dân...

Ở trong nước, nền kinh tế sẽ dần hồi phục và lấy lại đà tăng trưởng hướng phát triển vào thị trường nội địa. Tuy nhiên, sức cạnh tranh còn thấp, tiềm ẩn những rủi ro như biến động tỷ giá, lãi suất... Hơn nữa, tác động của biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh (đặc biệt, dịch bệnh COVID-19 có thể kéo dài) sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội...

Bối cảnh khó khăn, thách thức trên đã đặt ra yêu cầu đối với ngành DTNN là phải đổi mới, hình thành, tạo lập nguồn lực DTQG đủ mạnh để đảm bảo chủ động, kịp thời đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ khi có tình huống đột xuất, cấp bách xảy ra.

Nhằm thực hiện được mục tiêu, nhiệm vụ đề ra đối với ngành DTNN trong giai đoạn mới, dự thảo Chiến lược phát triển DTQG đến năm 2030 đã đề ra các mục tiêu tổng quát như sau: Nâng cao hiệu quả quản lý, huy động, sử dụng nguồn lực DTQG; Xây dựng lực lượng DTQG có quy mô đủ mạnh, cơ cấu hợp lý, danh mục mặt hàng chiến lược, thiết yếu để sẵn sàng, chủ động đáp ứng kịp thời, hiệu quả các mục tiêu DTQG và các nhiệm vụ được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao.

Về mục tiêu cụ thể, dự thảo Chiến lược nêu rõ các mục tiêu:

(i) Nguồn lực DTQG: Ưu tiên bố trí NSNN chi cho DTQG và huy động các nguồn lực hợp pháp ngoài NSNN để tăng cường tiềm lực DTQG.

(ii) Danh mục hàng DTQG và phân công cơ quan quản lý thực hiện theo quy định tại các Nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật DTQG và các quyết định của Thủ tướng Chính phủ có liên quan đến danh mục chi tiết hàng DTQG.

(iii) Dự kiến mức DTQG một số mặt hàng chiến lược, thiết yếu gồm: Lương thực, đến năm 2025 giữ mức dự trữ tồn kho cuối năm khoảng 250.000 tấn (quy gạo). Giai đoạn 2026 - 2030, căn cứ tình hình thực tế để trình Thủ tướng Chính phủ quyết định mức mua tăng hàng năm phù hợp.

Các mặt hàng phục vụ quốc phòng, an ninh cần tăng cường DTQG các mặt hàng chiến lược, tiên tiến, hiện đại với mức bố trí kinh phí hàng năm tăng cao hơn mức bình quân của toàn ngành, đảm bảo yêu cầu tăng cường nguồn lực cho quốc phòng, an ninh để chủ động, sẵn sàng cho nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ và giữ vững an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội và các nhiệm vụ đột xuất, cấp bách khác.

Các sản phẩm xăng dầu, mức dự trữ theo quy định tại Quy hoạch hạ tầng dự trữ, cung ứng xăng dầu, khí đốt quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Các mặt hàng nông nghiệp, y tế, giao thông, vận tải, phát thanh truyền hình mức DTQG đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của từng ngành, lĩnh vực trong giai đoạn thực hiện Chiến lược.

(iv) Hệ thống kho DTQG: Xây dựng, hoàn thiện hệ thống kho và cơ sở vật chất kỹ thuật, hạ tầng theo hướng tiên tiến, hiện đại, quy mô lớn, tập trung tại các vùng, tuyến chiến lược trong cả nước theo quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

(v) Đầu tư, nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật, mở rộng hợp tác quốc tế trong nghiên cứu và chuyển giao công nghệ bảo quản tiên tiến, hiện đại, phù hợp với điều kiện khí hậu và kinh tế - xã hội của Việt Nam, đảm bảo chất lượng, hạ thấp tỷ lệ hao hụt hàng DTQG; nâng cao năng suất lao động và bảo vệ môi trường. Đẩy mạnh hiện đại hóa ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành hoạt động DTQG.

Để đạt được các mục tiêu trên, Dự thảo Chiến lược phát triển DTQG đến năm 2030 đã đề ra các giải pháp sau:

Một là, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về DTQG bảo đảm đồng bộ, thống nhất, minh bạch, khả thi.

Hai là, tăng cường nguồn lực DTQG: Hàng năm, ưu tiên bố trí NSNN để tăng mức chi cho DTQG; đồng thời, huy động nguồn lực hợp pháp khác ngoài ngân sách từ các tổ chức, cá nhân trong, ngoài nước. Tăng cường hợp tác với các quốc gia, các tổ chức trong khu vực và trên thế giới để tìm kiếm sự hỗ trợ, liên kết trong lĩnh vực DTQG.

Ba là, hoàn thiện danh mục hàng DTQG: Hàng năm, thực hiện rà soát để điều chỉnh danh mục hàng DTQG, bổ sung những mặt hàng chiến lược, thiết yếu và loại bỏ những mặt hàng không còn phù hợp ra khỏi danh mục hàng DTQG.

Bốn là, tăng cường bố trí NSNN để đầu tư xây dựng hệ thống kho DTQG theo quy hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt, đảm bảo các điểm kho DTQG tập trung, đồng bộ, liên hoàn, an toàn, có quy mô đủ lớn, công suất và trang thiết bị kỹ thuật tiên tiến, hiện đại theo tiêu chuẩn kho DTQG; đồng thời, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, hạ tầng đồng bộ, phục vụ cho công tác quản lý, điều hành hoạt động DTQG.

Năm là, tăng cường ứng dụng các công nghệ mới trong công tác bảo quản hàng DTQG, tận dụng tối đa lợi thế của Cách mạng công nghiệp 4.0 để tiến tới tự động hóa các khâu trong quy trình nghiệp vụ bảo quản hàng DTQG.

Nghiên cứu, tiếp thu, chuyển giao có chọn lọc công nghệ bảo quản mới, tiên tiến, hiện đại phù hợp với điều kiện của Việt Nam và đặc thù của mỗi loại hàng DTQG.

Sáu là, đầu tư hiện đại hóa ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý điều hành hoạt động DTQG;

tin học hóa quy trình nghiệp vụ nhập, xuất, bảo quản hàng DTQG. Hoàn thành xây dựng hệ thống công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu quản lý hàng DTQG, quản lý hệ thống kho DTQG, nghiệp vụ DTQG, quản lý nguồn nhân lực.

Bảy là, tổ chức bộ máy DTQG được bố trí ở Trung ương và các khu vực, địa bàn chiến lược trong cả nước đảm bảo sẵn sàng đáp ứng yêu cầu khi có tình huống đột xuất, cấp bách xảy ra.

Tám là, tăng cường thanh tra, kiểm tra, cải cách thủ tục hành chính trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về DTQG.

Chín là, đẩy mạnh hợp tác quốc tế với các nước trong khu vực và trên thế giới để nghiên cứu, tiếp thu và chuyển giao công nghệ bảo quản hàng DTQG, công nghệ xây dựng hệ thống kho DTQG, đào tạo nguồn nhân lực; chia sẻ thông tin, kinh nghiệm về tổ chức, quản lý, điều hành hoạt động DTQG công nghệ bảo quản hàng DTQG và dự báo đối với hoạt động DTQG.

Mười là, nâng cao công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về DTQG. Tăng cường tuyên truyền, vận động để nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, cán bộ công chức, các tầng lớp nhân dân trong toàn xã hội về hoạt động DTQG, chú trọng tuyên truyền công tác “xã hội hóa” hoạt động DTQG.

Dự thảo Chiến lược phát triển DTQG đến năm 2030 đã được Bộ Tài chính trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Văn bản số 87/TTr-TCDT ngày 20/4/2022.

Tài liệu tham khảo:

1. Quốc hội (2012), Luật số 22/2012/QH13 về dự trữ quốc gia;

2. Thủ tướng Chính phủ (2022), Quyết định số 368/QĐ-TTg ngày 21/3/2022 phê duyệt Chiến lược tài chính đến năm 2030;

3. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 2091/QĐ-TTg ngày 28/12/2012 phê duyệt Chiến lược phát triển DTQG đến năm 2020;

4. Văn bản số 87/TTr-TCDT ngày 20/4/2022, Dự thảo Chiến lược phát triển dự trữ quốc gia đến năm 2030.

*Theo Đỗ Việt Đức - Tổng cục trưởng Tổng cục Dự trữ Nhà nước (Bộ Tài chính).

** Bài viết đăng trên Tạp chí Tài chính số kỳ 1 tháng 6/2022.