Nhanh chóng nâng cao năng lực ngành kho vận
Năm 2022, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam vượt qua con số 730 tỷ USD. Riêng xuất khẩu đạt 371,5 tỷ USD, tăng 10,5% so năm 2021. Là nền kinh tế dựa trên xuất khẩu hàng hóa, nước ta cần đẩy nhanh nâng cấp hạ tầng kho vận, tận dụng vị trí địa lý để nâng cao năng lực cạnh tranh với các nước trong khu vực.
Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái vừa ký Nghị quyết số 163/NQ-CP về việc thúc đẩy thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp quan trọng của ngành kho vận (logistics).
Việt Nam sẽ tập trung nâng cao năng lực cạnh tranh dịch vụ kho vận và đưa nó trở thành một ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao để thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội. Ngành kho vận sẽ được thúc đẩy thông qua sản xuất, xuất nhập khẩu.
Các động lực sẽ đến từ phát triển cơ sở hạ tầng giao thông và công nghệ thông tin, nâng cao khả năng cạnh tranh của các công ty hậu cần và tăng cường liên kết để đưa đất nước trở thành trung tâm hậu cần quan trọng của khu vực.
Bên cạnh việc phát triển chuỗi cung ứng bền vững, việc nâng cao khả năng ứng dụng công nghệ số cũng như chất lượng nguồn nhân lực cũng được đề cao. Các bộ Thương mại, Giao thông vận tải và Tài chính sẽ hợp tác để theo dõi tình hình quốc tế và khu vực và phân tích bất kỳ tác động liên quan nào đối với nền kinh tế.
Bộ Giao thông vận tải sẽ bảo đảm cơ sở hạ tầng giao thông như kho ngoại quan, kho nội địa và trung tâm hậu cần phù hợp với mục tiêu phát triển hậu cần. Bộ Tài chính có trách nhiệm rà soát, tháo gỡ các rào cản như phí, giá dịch vụ, chính sách thuế để tạo điều kiện cung cấp dịch vụ kho vận.
Logistics xanh, chỉ số quan trọng cho sự phát triển bền vững của ngành kho vận, cũng sẽ được thúc đẩy. Vì hiện tại, chỉ có 31% số doanh nghiệp kho vận sử dụng năng lượng tái tạo trong vận hành kho bãi, 26,8% không có chiến lược phát triển xanh và 35,2% không có hoạt động liên quan giám sát môi trường.
Về hệ thống cảng biển, thông tin từ hội thảo do Bộ Giao thông vận tải tổ chức gần đây cho biết, Việt Nam sẽ cần gần 400 nghìn tỷ đồng (16 tỷ USD) để nâng cấp hệ thống cảng biển vào năm 2030. Phó Giám đốc Trung tâm Tư vấn đầu tư phát triển giao thông vận tải Phạm Hoài Chung đề xuất hợp tác công tư (PPP) trong đầu tư cảng cạn container, đồng thời mở rộng, đa dạng hóa các hình thức đầu tư, thu hút sự tham gia của các thành phần kinh tế.
Theo Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải Nguyễn Xuân Sang, hệ thống cảng biển nội địa dài hơn 90km có thể xử lý khoảng 750 triệu tấn hàng hóa mỗi năm. Hơn 90% hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam đi qua các cảng biển, giúp đất nước bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô.
Hiện tại, TP. Hồ Chí Minh - khu vực cảng biển quan trọng tại phía nam, đã quyết định phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng cảng biển của thành phố, quy hoạch và đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông, hệ thống cảng nội địa và trung tâm kho vận cho phù hợp. Đến năm 2050, tốc độ tăng trưởng trung bình hằng năm của lượng hàng hóa và hành khách được đặt ở mức tương ứng là 3,5-3,8% và 0,9-1%.
Theo quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 sẽ có năm nhóm cảng biển. Nhóm 4 gồm TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương và Long An. Cảng biển Nhóm 4 dự kiến đạt sản lượng hàng hóa và hành khách thông qua lần lượt là 461-540 triệu tấn và 1,7-1,8 triệu vào năm 2030. TP. Hồ Chí Minh cũng sẽ phối hợp với Bộ Giao thông vận tải quy hoạch cảng hành khách quốc tế gắn với vùng trọng điểm phát triển du lịch và đầu tư xây dựng cảng container trung chuyển quốc tế tại huyện Cần Giờ.
Mới đây, tỉnh miền trung Thừa Thiên Huế đã khai trương tuyến vận tải container nội địa đầu tiên tại Cảng Chân Mây. Tuyến đường do Công ty CP Cảng Chân Mây và Hải An Transport phối hợp khai trương sẽ kết nối Cảng Chân Mây với các cảng biển trong nước và quốc tế, được kỳ vọng sẽ giúp doanh nghiệp giảm thời gian vận chuyển và chi phí logistics.
Cảng Chân Mây, nằm ở góc đông nam của tỉnh Thừa Thiên Huế, đã đón tàu container đầu tiên, Hải An View, tại lễ hạ thủy vào ngày 25/12/2022. Cảng đang nỗ lực cải thiện cơ sở hạ tầng, dịch vụ để xếp dỡ container an toàn và hiệu quả, mở rộng các khu vực lưu trữ container trong những tháng tới để nâng công suất và tiếp nhận các tàu container lớn hơn. Trong những năm tới, cảng đặt mục tiêu tiếp nhận tàu container, tàu hàng đến 70.000 tấn và phát triển khu trung chuyển 200.000 tấn, kho ngoại quan, ga hàng hóa container.
Về vấn đề kho bãi, Việt Nam sẽ cần 15,9-18,7 nghìn tỷ đồng (676-796 triệu USD) để phát triển mạng lưới cảng cạn (ICD) vào năm 2030. Bộ Giao thông vận tải cũng đã trình Thủ tướng Chính phủ xem xét dự thảo kế hoạch phát triển hệ thống IDC giai đoạn 2021-2030. Hiện chỉ có 10 ICD đang hoạt động, chín ở phía bắc và một ở phía nam.
Sáu cảng nội địa khác được chỉ định là ICD, nhưng vẫn chưa được chuyển đổi. Dự thảo này quy hoạch ưu tiên nâng cấp các ICD nằm trên hành lang đến các cảng biển và cửa khẩu chính, bao gồm cảng Hải Phòng, TP. Hồ Chí Minh và Cái Mép - Thị Vải. Dự thảo đặt mục tiêu hệ thống ICD có khả năng xử lý 20-30% nhu cầu vận chuyển container cho xuất nhập khẩu vào năm 2025 với tổng công suất 6-8,7 triệu TEU mỗi năm và 25-35% vào năm 2030.
Tuy nhiên, Cục Hàng hải Việt Nam đánh giá hoạt động của các ICD còn thiếu hiệu quả và hầu như chưa có sự liên kết giữa các ICD với trung tâm kho vận tại một số địa phương.
Các chuyên gia đều đưa ra nhận định năm 2023 sẽ là một năm khó khăn khi nền kinh tế toàn cầu đang suy thoái, rủi ro lạm phát sẽ dẫn đến sự sụt giảm trong các hoạt động thương mại và kho vận. Vì vậy, các doanh nghiệp cần chuẩn bị cho những bất ổn, hay những sự cố bất ngờ như thiên tai, dịch bệnh.
Trong bối cảnh đó, cần rà soát các chính sách thuế, phí, đồng thời đơn giản hóa thủ tục hải quan để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kho vận. Đây là những ưu tiên hàng đầu để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành kho vận, tận dụng dải bờ biển của đất nước.