Phần mềm xuất, nhập khẩu qua mạng internet có thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Hải quan?

PV.

Trước các vướng mắc của các doanh nghiệp về việc xuất nhập khẩu phần mềm, Cục Giám sát quản lý về Hải quan, Tổng cục Hải quan đã có hướng dẫn cụ thể các trường hợp phần mềm xuất khẩu, nhập khẩu thuộc và không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Hải quan.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Tại Công văn số 959/GSQL-GQ1 gửi Công ty Cổ phần Smatec (Công ty) về việc xuất nhập khẩu phần mềm, Cục Giám sát quản lý về Hải quan cho biết, Điều 1 Luật Hải quan quy định quản lý nhà nước về hải quan đối với hàng hóa được xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh, phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh quá cảnh của tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài trong lãnh thổ hải quan; về tổ chức và hoạt động của Hải quan.

Khoản 6 Điều 4 Luật Hải quan quy định, hàng hóa bao gồm động sản có tên gọi và mã số theo Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu Việt Nam được xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh hoặc được lưu giữ trong địa bàn hoạt động hải quan.

Theo Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu Việt Nam ban hành kèm theo Thông tư số 65/2017/TT-BTC ngày 27/6/2017 Bộ Tài chính thì chưa có quy định cụ thể về mã số đối với phần mềm khi xuất khẩu, nhập khẩu.

Bên cạnh đó, Điểm b khoản 1 Điều 2 Thông tư số 28/2014/TT-BVHTTDL ngày 31/12/2014 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định, sản phẩm nghe nhìn khác ghi trên mọi chất liệu là các bản ghi âm, ghi hình, phần mềm được chứa trong băng cát - xét, băng video, đĩa CD, VCD, DVD, CD-ROM, đĩa vi tính, IC chips, ổ cứng và các loại phương tiện, máy móc, thiết bị vật liệu và kỹ thuật số khác.

Khoản 3 Điều 8 Thông tư số 28/2014/TT-BVHTTDL quy định, đối với các sản phẩm nghe nhìn được chứa trong máy móc, thiết bị, linh kiện, phương tiện hoặc sản phẩm nghe nhìn khác ghi trên mọi chất liệu có nội dung vui chơi giải trí, trò chơi điện tử (trừ trò chơi điện tử trực tuyến và trò chơi điện tử quy định tại Điều 10) và nội dung văn hóa khác không phải là sản phẩm quy định tại các khoản 1 và 2 Điều này phải được cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết trên cơ sở hồ sơ đề nghị nhập khẩu của thương nhân.

Căn cứ các quy định nêu trên, trường hợp phần mềm xuất khẩu, nhập khẩu qua mạng internet, không qua địa bàn giám sát của cơ quan hải quan nên không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Hải quan. Cơ quan Hải quan không yêu cầu Công ty phải làm thủ tục hải quan đối với phần mềm xuất khẩu, nhập khẩu qua mạng internet.

Trường hợp Công ty bán (xuất khẩu) phần mềm được chứa đựng trong một phương tiện khác (như ổ cứng, đĩa CD, USB....) vào khu chế xuất thì phương tiện đó được coi là hàng hóa xuất khẩu và chịu sự giám sát, quản lý của cơ quan hải quan.

Theo đó, thủ tục hải quan của mặt hàng được thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 75 Thông tư số 38/2015/TT-BTC ngày 25/3/2015 của Bộ Tài chính.