Phát triển thị trường vốn nợ để giảm phụ thuộc ngân hàng

Minh Lâm

Trái phiếu doanh nghiệp và các công cụ vốn nợ cần được đẩy mạnh để khắc phục tình trạng phụ thuộc tín dụng ngân hàng, tạo nền tảng tài chính bền vững cho nền kinh tế.

Nhu cầu vốn lớn và sự phụ thuộc vào ngân hàng

Trong nhiều năm qua, hệ thống ngân hàng vẫn là kênh cung ứng vốn chủ yếu cho doanh nghiệp Việt Nam. Số liệu nửa đầu năm 2025 cho thấy tăng trưởng tín dụng đạt 8,3% so với đầu năm và 18,87% so với cùng kỳ, phản ánh mức độ phụ thuộc cao vào vốn vay ngân hàng.

Trong khi đó, thị trường trái phiếu doanh nghiệp dù có dấu hiệu phục hồi nhưng quy mô còn nhỏ, khi tới 83% giá trị phát hành trong nửa đầu năm lại do chính các ngân hàng thương mại thực hiện.

Tại Tọa đàm "Thị trường vốn nợ Việt Nam 2025: Nguồn vốn cho khu vực tư nhân trong kỷ nguyên tăng trưởng mới” do FiinRatings và Quỹ Bảo lãnh Tín dụng và Đầu tư (CGIF) thuộc ADB tổ chức, các chuyên gia đều thống nhất rằng đây là điểm nghẽn lớn nhất của hệ thống tài chính.

Ông Bùi Hoàng Hải - Phó Chủ tịch UBCKNN cho rằng, thị trường vốn nợ Việt Nam, trong đó có trái phiếu doanh nghiệp, còn nhiều dư địa để phát triển.
Ông Bùi Hoàng Hải - Phó Chủ tịch UBCKNN cho rằng, thị trường vốn nợ Việt Nam, trong đó có trái phiếu doanh nghiệp, còn nhiều dư địa để phát triển.

Ông Đỗ Ngọc Quỳnh - Phó Chủ tịch FiinRatings, Tổng Thư ký Hiệp hội Thị trường Trái phiếu Việt Nam (VBMA) chỉ ra rằng, quy mô trái phiếu doanh nghiệp của Việt Nam mới đạt khoảng 1,25 triệu tỷ đồng, tương đương 10,8% GDP năm 2024, cách khá xa mục tiêu 25% GDP vào năm 2030. So sánh với khu vực, tỷ lệ này còn khiêm tốn: Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia duy trì ở mức 30–40% GDP, trong khi Mỹ và Nhật Bản vượt 100%.

Theo ông Quỳnh, muốn giảm lệ thuộc tín dụng ngân hàng, Việt Nam cần khơi thông dòng vốn trung và dài hạn qua kênh vốn nợ. Ông Quỳnh nhận định, khai thông thị trường vốn nội địa, đặc biệt là thị trường vốn nợ, chính là điều kiện tiên quyết để giảm sự phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng, đồng thời tạo nền tảng để vốn dài hạn, chi phí hợp lý chảy vào khu vực tư nhân.”

Tuy nhiên, để đạt mục tiêu đó, Việt Nam phải đối diện với hàng loạt thách thức: cơ sở nhà đầu tư hạn chế, chất lượng hàng hóa chưa đồng đều, cơ chế bảo lãnh tín dụng và xếp hạng tín nhiệm chưa phát huy hết vai trò, hạ tầng thông tin – giao dịch – giám sát còn thiếu đồng bộ. Đây chính là những điểm nghẽn khiến kênh TPDN chưa thực sự trở thành nguồn vốn tin cậy cho khu vực tư nhân.

Giải pháp phát triển thị trường vốn nợ

Để tháo gỡ, ông Đỗ Ngọc Quỳnh đề xuất ba trụ cột chính sách.

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý và cơ chế để khuyến khích phát hành ra công chúng, coi đây là kênh huy động vốn chủ đạo cho doanh nghiệp.

Thứ hai, tăng cường minh bạch thông tin và khuyến khích xếp hạng tín nhiệm nhằm tạo cơ sở đánh giá rủi ro cho nhà đầu tư.

Thứ ba, đa dạng hóa công cụ vốn và mô hình bảo lãnh, nhất là phát triển các quỹ đầu tư và bảo lãnh tín dụng như mô hình CGIF đang thực hiện, giúp giảm chi phí vốn và mở rộng tệp nhà đầu tư.

Từ phía cơ quan quản lý, ông Bùi Hoàng Hải - Phó Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) nhấn mạnh, Chính phủ đã xác định kinh tế tư nhân là động lực quan trọng trong giai đoạn phát triển mới, được thể hiện rõ trong Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, Nghị quyết số 198/2025/QH15 và Nghị quyết số 138/NQ-CP về Kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 68-NQ/TW…

Theo Phó Chủ tịch UBCKNN, để tư nhân có thể bứt phá, cần mở rộng khả năng tiếp cận vốn ngoài kênh ngân hàng, trong đó trái phiếu doanh nghiệp là trọng tâm.

Hiện, UBCKNN đang triển khai nhiều giải pháp đồng bộ để phát triển thị trường vốn an toàn, minh bạch và hiệu quả. Với TPDN, định hướng bao gồm: Đa dạng hóa sản phẩm; mở rộng nhà đầu tư tổ chức dài hạn; khuyến khích phát hành trái phiếu xanh, trái phiếu gắn với dự án đầu tư ưu tiên; hoàn thiện khung pháp lý cho cả chào bán riêng lẻ và ra công chúng; tăng cường áp dụng xếp hạng tín nhiệm và cơ chế bảo lãnh nhằm nâng cao độ tin cậy.

“Thị trường vốn nợ Việt Nam, trong đó có trái phiếu doanh nghiệp, còn nhiều dư địa để phát triển. Tuy nhiên, để vận hành hiệu quả cần sự chung tay của toàn bộ các thành viên: từ doanh nghiệp, nhà đầu tư, định chế trung gian đến các tổ chức xếp hạng tín nhiệm và bảo lãnh tín dụng”, ông Hải nhấn mạnh.

Toàn cảnh Toạ đàm “Thị trường Vốn Nợ Việt Nam 2025: Nguồn vốn cho Khu vực Tư nhân trong Kỷ nguyên Tăng trưởng Mới” do FiinRatings tổ chức.
Toàn cảnh Toạ đàm “Thị trường Vốn Nợ Việt Nam 2025: Nguồn vốn cho Khu vực Tư nhân trong Kỷ nguyên Tăng trưởng Mới” do FiinRatings tổ chức.

Cụ thể, đối với doanh nghiệp, yêu cầu hàng đầu là nâng cao quản trị, minh bạch thông tin và trách nhiệm với nhà đầu tư. Đối với nhà đầu tư, cần chuyên nghiệp, có tầm nhìn dài hạn và khả năng đánh giá rủi ro - lợi ích một cách đầy đủ. Các định chế trung gian phải nâng cao năng lực tư vấn, phân phối và giám sát, đảm bảo hoạt động minh bạch, trong khi các tổ chức xếp hạng tín nhiệm cần cung cấp dịch vụ chất lượng cao để tạo niềm tin cho thị trường.

Theo các chuyên gia, nếu tận dụng tốt cơ hội cải cách, thị trường này sẽ trở thành trụ cột song hành cùng tín dụng ngân hàng, góp phần giải tỏa áp lực vốn và tạo động lực tăng trưởng bền vững cho nền kinh tế.