Quản lý, giám sát doanh nghiệp nhà nước công khai và minh bạch (*)

PGS.,TS. Đặng Văn Thanh

(Tài chính) Những năm qua, doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đã có những đóng góp quan trọng vào phát triển và giữ ổn định kinh tế vĩ mô, giải quyết các vấn đề an sinh xã hội, góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước. Nhiều DNNN, kể cả doanh nghiệp đã cổ phần hóa, Nhà nước nắm cổ phần chi phối đã bảo toàn và phát triển vốn, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, cơ bản thực hiện tốt các nhiệm vụ được Nhà nước giao, nhiệm vụ kinh doanh theo nguyên tắc hạch toán kinh tế.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Có thể khẳng định, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, DN thuộc sở hữu nhà nước là sản phẩm tất yếu, khách quan, ra đời, tồn tại và phát triển theo quy luật thị trường cạnh tranh, có sự quản lý, điều tiết của Nhà nước và lợi ích kinh tế với lợi nhuận tối đa.

Nhà nước Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, vì vậy Nhà nước đóng cả hai vai trò: Chủ sở hữu và người quản lý nhà nước đối với các DN thuộc sở hữu nhà nước hay nói rộng ra là các DN có vốn thuộc sở hữu Nhà nước. DN thuộc sở hữu nhà nước là một cơ cấu sở hữu thuộc Nhà nước vừa có chức năng sản xuất - kinh doanh, vừa có chức năng liên kết kinh tế thông qua hoạt động có chủ định của Nhà nước trên các ngành, các lĩnh vực ở những vùng lãnh thổ nhất định.

Yêu cầu phát triển kinh tế và sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới ngày càng sâu rộng của Việt Nam đòi hỏi phải có những DNNN, DN có vốn sở hữu của Nhà nước giữ vai trò điều tiết một số lĩnh vực quan trọng trong nền kinh tế để thực hiện những nhiệm vụ kinh tế và chính trị của đất nước, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại quốc tế (WTO).

Những năm qua, nhiều DNNN những đóng góp quan trọng vào phát triển và giữ ổn định kinh tế vĩ mô, giải quyết các vấn đề an sinh xã hội, góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước. Nhiều DNNN, kể cả DN đã cổ phần hóa, Nhà nước nắm cổ phần chi phối đã bảo toàn và phát triển vốn, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, cơ bản thực hiện tốt các nhiệm vụ được Nhà nước giao, nhiệm vụ kinh doanh theo nguyên tắc hạch toán kinh tế.

Tuy nhiên, trên thực tế còn nhiều hạn chế, thiếu sót trong các chính sách, pháp luật đã ban hành; tồn tại những yếu kém trong tổ chức quản lý, sử dụng vốn và tài sản tại các DNNN, kể cả các DN đã được cổ phần hóa toàn bộ hay từng bộ phận. Một số lượng không nhỏ DNNN sản xuất, kinh doanh đạt hiệu quả thấp, chưa phát huy tốt vai trò chủ lực trong nền kinh tế, chưa tương xứng với những lợi thế và sự đầu tư của Nhà nước.

Một số DN làm ăn thua lỗ kéo dài, không bảo toàn được vốn của Nhà nước, thậm chí đã và đang lâm vào tình trạng phá sản. Các DNNN có tình trạng đầu tư dàn trải, không tập trung vào ngành kinh doanh chính, đầu tư vào những lĩnh vực nhạy cảm, rủi ro và không thuộc thế mạnh của mình như bất động sản, chứng khoán, ngân hàng, du lịch, nhà hàng, khách sạn...

Tình trạng hoạt động kém hiệu quả, đầu tư dàn trải, nợ nần chồng chất của một số DNNN đã được phát hiện và báo động từ nhiều năm nay. Việc phát hiện và thấy được những việc làm, những yếu kém của DNNN không có gì khó khăn. Không chỉ các công ty kiểm toán độc lập trong nước và quốc tế, không chỉ kiểm toán nhà nước đã đưa ra những ý kiến về thực trạng tài chính của các DNNN từ nhiều năm nay, mà ngay cả các báo cáo giám sát của Quốc hội, của các ủy ban của Quốc hội cũng đã nêu thực trạng các DNNN bằng nhiều số liệu, bằng chứng khá sống động và đã có không ít Nghị quyết về DNNN, Luật và chính sách đối với DNNN. Vì vậy, sự đổ vỡ, mất mát về vốn nhà nước ở một số DNNN không có gì đáng ngạc nhiên và tình hình đang xấu đi ở nhiều DNNN, kể cả các tập đoàn kinh tế (TĐKT), tổng công ty (TCT) nhà nước.

DNNN là mô hình tổ chức DN phổ biến ở nước ta trong nhiều năm qua, từ các loại hình tổ chức xí nghiệp, xí nghiệp liên hợp, liên hiệp các xí nghiệp; TCT 90, TCT 91, Công ty Mẹ - con và có thêm các loại hình TĐKT. Rất tiếc là nhiều mô hình tổ chức triển khai thí điểm, nhưng chưa hề được đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm đã triển khai trên diện rộng. Và có lúc như là "mốt" theo phong trào. Thiết nghĩ, trước xu hướng mở rộng mô hình DN mới, vấn đề đặt ra là cần tổng kết lại mô hình Công ty, Công ty TNHH, Công ty Cổ phần, TCT, Công ty Mẹ - con, mô hình TĐKT đã đạt được những tiến bộ gì, ưu việt gì so với mô hình DNNN trước đây, những điều đó cần được chứng minh bằng định lượng. Có như vậy, chúng ta mới có thể tiếp tục tạo lập và duy trì các mô hình DNNN đúng hướng và có hiệu quả như mong đợi.

Trước hết, chúng ta đã mắc sai lầm chủ quan duy ý chí, nóng vội và áp đặt để chuyển sang Công ty TNHH một thành viên, xây dựng và phát triển các Công ty theo mô hình Công ty mẹ, công ty con, thành lập quá nhiều các TĐKT khi các loại hình DN đó chưa hội đủ những yếu tố cơ bản để hình thành nên một Công ty, TCT hay TĐKT như: tài chính, nhân lực, sản phẩm, công nghệ, uy tín, quản lý Các Công ty nhà nước được cổ phần hóa và vận hành theo loại hình công ty cổ phần nhưng gần như không có những thay đổi cần thiết trong cơ chế quản trị kinh doanh của Công ty và sự đổi mới trong công tác quản lý nhà nước, kể cả quản lý nhà nước đối với công ty có vốn cổ phần chi phối của Nhà nước.

Vai trò chủ sở hữu của Nhà nước và vai trò quan lý nhà nước đối với DN khá mờ nhạt và không rành mạch. Cho đến nay, chúng ta chưa công bố đề án thí điếm theo những tiêu chí khoa học. Công ty TNHH một thành viên, Công ty theo mô hình mẹ - con, TĐKT Nhà nước được quản lý thế nào, nhân sự được lựa chọn theo tiêu chí gì, vấn đề độc quyền, vị thế thống lĩnh thị trường. Trên thực tế, Quốc hội đã ban hành Luật DN, nhưng chưa quy định đầy đủ về Công ty TNHH một thành viên, Công ty mẹ - con, TĐKT. Chưa có quy định cụ thể về đại diện chủ sở hữu đích thực của DN, chưa có quy định cụ thể cho việc thành lập, tổ chức, hoạt động của các DN có vốn sở hữu nhà nước theo Luật DN.

Vì vậy, trong quá trình hoạt động, của Công ty TNHH một thành viên là Nhà nước, Công ty mẹ - con, TĐKT đã gặp không ít khó khăn, vướng mắc như quản lý trong nội bộ DNNN, quản lý nhà nước đối với DNNN, thực hiện quyền chủ sở hữu đối với DNNN, cơ chế hoạt động, kinh doanh đa ngành... Nhiều quy định trong nội bộ DNNN đều phải xây dựng trên cơ sở vận dụng theo các quy định riêng.

Thứ hai, để lành mạnh hóa tài chính trong DNNN, trước hết cần có quy định pháp lý về nghĩa vụ và quyền của Đại diện chủ sở hữu trong việc huy động, tố chức và sử dụng nguồn lực cho hoạt động kinh doanh. Thực hiện triệt để hơn việc tách chức năng thực hiện các quyền chủ sở hữu với chức năng quàn lý hành chính nhà nước; tách bạch rõ ràng thực hiện quyền chủ sở hữu với quyền chủ động kinh doanh của DN; tôn trọng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong kinh doanh của DN.

Hoàn thiện cơ chế phân cấp việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước theo nguyên tắc có một đầu mối chịu trách nhiệm chính, thực hiện nhiệm vụ theo dõi, tổng hợp tình hình quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước và phân tích, đánh giá hiệu quả sản xuất, kinh doanh của DNNN, kể cả các tập đoàn kinh tể, TCT đặc biệt.

Chấn chỉnh hoạt động đầu tư tràn lan ở một số đơn vị, nhất là sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào những lĩnh vực rủi ro khi không có bộ máy, nhân lực thích hợp, gây thất thoát vốn hoặc sử dụng vốn không hiệu quả của một số DNNN; vốn nhà nước phải được ưu tiên tập trung đầu tư thực hiện nhiệm vụ chính được giao. Có giải pháp xử lý triệt để tình trạng nợ dây dưa, nợ chiếm dụng không lành mạnh trong nền kinh tế đang gây trở ngại nghiêm trọng cho nhiều DN.

Kiên quyết xử lý sớm, xử lý dứt điểm các DN hoạt động không hiệu quả, thua lỗ kéo dài, nếu cần thì cho phá sản để tổ chức lại. Làm rõ trách nhiệm tập thể, cá nhân, không để tình trạng vốn đầu tư của Nhà nước tiếp tục bị thất thoát. Đẩy nhanh tiến độ sắp xếp cổ phần hóa.

Thứ ba, cần chuyển nhanh và bắt buộc các DNNN chuyển sang hoạt động dưới hình thức công ty đại chúng. Tình hình và kết quả hoạt động của DNNN và các thành viên của TCT, TĐKT, thực trạng tài chính của DNNN phải được công khai và chịu sự kiểm soát không chỉ của Nhà nước với tư cách đại diện chủ sở hữu mà cả của nhân dân, những người chủ đích thực.

Thứ tư, xây dựng hệ thống kiểm tra, giám sát đủ năng lực và điều kiện về quản lý vốn, tài sản tại các DNNN, trước hết là tại các TĐKT, TCT song song với việc tăng tính trách nhiệm của cơ quan quản lý; Quy định rõ trách nhiệm của Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc về hiệu quả hoạt động sản xuất – kinh doanh của DN. Có các cơ chế thưởng, phạt bảo đảm cho Hội đồng quản trị, Giám đốc, Tổng giám đốc thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ được giao. Hoàn thiện quy chế đánh giá, xếp hạng chất lượng hoạt động của DN cùng với các biện pháp chế tài đủ mạnh và kiên quyết thực hiện để làm cơ sở đánh giá kết quả, chấn chỉnh hoạt động, nhân sự HĐQT và Tổng giám đốc.

Thứ năm, cần xây dựng các tiêu chí mang tính bắt buộc đối với các DNNN, như tỷ suất lợi nhuận trên đồng vốn cần phải đạt, tốc độ tăng năng suất lao động, tăng xuất khẩu, tỷ lệ giảm tiêu hao năng lượng và nguyên liệu vật liệu, các sáng chế, phát  minh... Việc bảo vệ môi trường cần được giao và đánh giá thường xuyên với các DNNN. Những kết quả đánh giá này cần được làm hàng năm, báo cáo trước Quốc hội và công bố công khai cho nhân dân.

Thứ sáu, cần thay đổi về cơ bản công tác quản lý tài chính của các DNNN. Theo đó, các DNNN cần tăng cường hệ thống kiểm soát tài chính. Kiểm soát tài chính là công cụ quan trọng để thực hiện mục tiêu quản lý của các DNNN, của Công ty mẹ đối với các công ty con trong mối quan hệ đầu tư vốn, là công cụ để các chủ sở hữu, các nhà đầu tư quản lý, giám sát hiệu quả vốn đầu tư, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các chủ thể sở hữu vốn tham gia đầu tư vào DNNN, DN cổ phần, bảo đảm quyền lợi của các cổ đông, hạn chế rủi ro cho các khoản đầu tư, là công cụ đánh giá mức độ phù họp của các mục tiêu, quyết định và chính sách của HĐQT trong điều hành DN, đảm bảo cho DN sử dụng vốn một cách hiệu quả. Cần khôi phục lại vị thế và chức năng của kế toán trưởng trong các DNNN. Kế toán trưởng trong các DNNN không phải là công cụ hay giúp việc cho giám đốc, tổng giám đốc, không chỉ làm nhiệm vụ tổ chức hệ thống thông tin về kinh tế tài chính mà quan trọng hơn phải là kiểm soát viên kinh tế tài chính của Nhà nước tại DN. Kế toán trưởng hay giám đốc tài chính phải là người của chủ sở hữu vốn là đại diện của chủ sở hữu về mặt tài chính, chịu trách nhiệm vật chất trước chủ sở hữu về tình trạng tài chính và tuân thụ luật pháp tài chính trong DN.

Thứ bảy, cần thiết lập và duy trì hệ thống kiểm soát nội bộ trong từng DN, từng thành viên của DN, đặc biệt là ở các Công ty cổ phần, công ty TNHH một thành viên, TĐKT và các Công ty theo mô hình công ty mẹ công ty con. Đảm bảo tính hiệu lực và hiệu quả của hệ thống bao gồm các quy trình nghiệp vụ và vấn đề phân cấp, phân quyền, vấn đề quyết đinh trong kinh doanh, trong bố trí nhân sự. Thực hiện nghiệm các quy trình, thủ tục giám sát, tuân thủ nguyên tắc bất kiêm nhiệm.

Bộ Tài chính cần khôi phục lại chế độ kiểm toán nội bộ, trước hết đối với các DNNN đã ban hành theo Quyết định 832/TC-QĐ từ năm 1997. Quyết định này đã triển khai có hiệu quả và sau đó bị ngưng lại, đã không được duy trì đúng mức. Trong mỗi DNNN cần tạo lập lại 3 vòng bảo vệ theo nguyên tắc tỗ chức và quản trị tài chính công ty. cần thiết lập và duy trì ngay trong nội bộ các DN có vốn sở hữu nhà nước các quy trình thủ tục.

Đề cao vai trò và trách nhiệm quản trị, kiểm soát rủi ro trong hoạt động kinh doanh, cần nhận dạng, phát hiện và hạn chế tối đa các rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát trong chính bộ máy quản lý, trong từng quy trình nghiệp vụ, trong từng hoạt động sản xuất kinh doanh. Kết hợp quản trị tiên tiến, hiện đại với chính những quy trình thủ tục và kỷ luật trong quản lý đã rất có nề nếp từ những năm 60 của thế kỷ trước đối với xí nghiệp quốc doanh trong cơ chế quản lý kinh tế kế hoach hóa tập trung.

Thiết lập hệ thống kiểm toán nội bộ trong mỗi DNNN, trong từng công ty, từng bộ phận kinh doanh. Kiểm toán nội bộ, vòng kiểm soát ngoài cùng, vòng kiểm soát thứ 3 trong TĐKT sẽ nâng cao độ tin cậy của thông tin tài chính và quan trong hơn là phát hiện kịp thời những tồn tại trong kinh doanh của DNNN để giúp DNNN nhanh chóng đưa ra các quyết định điều chỉnh hoạt động phù họp với yêu cầu thị trường, phát hiện và khai thác triệt để các tiềm năng trong các DN, của các công ty con, đưa ra các quyết định tài chính đúng đắn, đạt hiệu quả cao.

Phải nói rằng, một trong các lý do yếu kém trong hoạt động tài chính, lý do dẫn một số DNNN đến tình cảnh hiện nay là trong nhiều DNNN, hầu như kiểm soát tài chính chưa được coi trọng, không duy trì hệ thống kiểm sóat nội bộ và kiểm toán nội bộ. Đặc biệt là trong một số DNNN, kiểm soát tài chính và thực hiện các hoạt động tài chỉnh đều do cùng 1 đơn vị thực hiện, không đảm bảo tính độc lập tương đối của bộ máy kiểm toán nội bộ.

(*) Tít bài do FinancePlus.vn đặt. Bài viết được trích từ tham luận tại Hội thảo "Quan điểm và định hướng xây dựng Luật Quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp" do Bộ Tài chính tổ chức ngày 30/1/2013