Rau quả "đánh rơi" hàng tỷ USD vì khoảng trống chế biến

Theo Nhật Linh/vnbusiness.vn

Ngành rau quả Việt Nam chủ yếu vẫn xuất tươi hơn 76%, tỷ lệ chế biến rất khiêm tốn, trong khi người tiêu dùng thế giới ngày càng có nhu cầu lớn đối với các sản phẩm rau quả chế biến. Điều này đòi hỏi Việt Nam cần phải đẩy mạnh thu hút đầu tư công nghệ, xây dựng nhà máy chế biến sâu để khỏa lấp khoảng trống hàng tỷ USD này.

 Trái cây chế biến còn chiếm tỷ lệ thấp trong kim ngạch xuất khẩu.
Trái cây chế biến còn chiếm tỷ lệ thấp trong kim ngạch xuất khẩu.

Theo ước tính, sản lượng rau quả Việt Nam hàng năm đạt 31 triệu tấn nhưng tỷ lệ chế biến chỉ đạt khoảng 12-17%. Ngành chế biến rau quả chỉ mới đáp ứng khoảng 8-10% sản lượng rau quả hàng năm. Trong khi đó, đến nay, hơn 76% rau quả xuất khẩu chưa qua chế biến, việc tiêu thụ vẫn đang ở dạng tươi hoặc sơ chế, bảo quản là chủ yếu, dẫn đến tổn thất sau thu hoạch khá cao.

Xuất khẩu thô, giá trị gia tăng thấp

Ông Trần Văn Công, Tham tán Nông nghiệp của Việt Nam tại châu Âu, cho hay mỗi năm thị trường châu Âu nhập khẩu rau củ quả khoảng 120 tỷ USD, chiếm 40% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu rau quả toàn cầu. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu rau củ quả của Việt Nam sang châu Âu chỉ đạt khoảng 190 triệu USD, chiếm tỷ trọng rất nhỏ so với thị phần châu Âu đang nhập khẩu.

Trong cơ cấu rau quả Việt Nam xuất khẩu sang châu Âu thời gian qua, sản phẩm tươi chiếm khoảng 70%, sản phẩm chế biến chỉ chiếm 30% (nước ép trái cây, nước ép đông lạnh chiếm tỷ trọng lớn). Người dân châu Âu đang có xu hướng tiêu dùng xanh và có nhu cầu cao với thực phẩm bổ dưỡng, có lợi cho sức khỏe, sản phẩm thực vật để thay thế sản phẩm động vật.

Về phía địa phương, ông Đoàn Ngọc Có, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Gia Lai, cho hay năm 2022, địa phương phát triển khoảng 35.000 ha diện tích trồng các loại rau ăn lá, rau ăn quả, trong đó khoảng 1.200 ha diện tích sản xuất rau theo tiêu chuẩn. Đến năm 2025, tỉnh Gia Lai sẽ phấn đấu mở rộng diện tích lên 50.000ha, chuyển hướng toàn bộ sang sản xuất theo tiêu chuẩn, có chứng nhận VietGAP, đáp ứng được vấn đề truy xuất nguồn gốc để có thể tiêu thụ tại thị trường trong nước, hướng đến xuất khẩu.

Đối với cây ăn quả, năm 2022, Gia Lai phấn đấu mở rộng diện tích lên 29.700ha với 4 cây trồng chủ lực là chanh leo, chuối, sầu riêng, bơ. Trong đó, tỉnh hiện có 8.500 ha sản xuất theo tiêu chuẩn GlobalGAP phục vụ xuất khẩu. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 22 cơ sở và 4 nhà máy chế biến rau củ quả.

Tuy nhiên, lãnh đạo Sở NN&PTNT tỉnh Gia Lai thừa nhận mặc dù đã có nhiều cố gắng từ chính quyền đến người dân, nhưng diện tích sản xuất những sản phẩm rau củ quả của Gia Lai đạt tiêu chuẩn để xuất khẩu còn chưa cao. Thời gian tới, tỉnh sẽ tổ chức lại sản xuất, gắn với tiêu chuẩn của thị trường quốc tế. Ngoài ra, chuỗi liên kết sản xuất cũng như tỷ lệ rau củ quả được ứng dụng công nghệ kỹ thuật để sơ chế, chế biến còn thấp, vì vậy Gia Lai mong muốn thu hút thêm đầu tư trong lĩnh vực chế biến nhằm nâng cao giá trị gia tăng của nông sản địa phương.

Trong khi đó, thế giới ngày càng có nhu cầu cao đối với nhập khẩu rau quả chế biến. Từ những thông tin mới nhất về xu hướng thực phẩm hiện nay được thu thập từ Hội chợ Thaifex 2022 vừa qua, bà Vũ Kim Hạnh, Chủ tịch Hội Doanh nghiệp hàng Việt Nam chất lượng cao, cho hay nhu cầu ăn uống của người dân trên toàn thế giới đang được cân bằng theo hướng tốt cho sức khỏe và tiện lợi. Ngoài ra, do phải làm việc trực tuyến, làm việc tại nhà kéo dài vì đại dịch khiến mọi người ngại đi ăn ở ngoài dẫn tới nhu cầu về thực phẩm chế biến lớn hơn.

Cùng với đó, Chủ tịch Hiệp hội Hàng Việt Nam chất lượng cao cũng chỉ ra bối cảnh thế giới hiện đang bị đe dọa bởi tình trạng thiếu lương thực, thực phẩm; yêu cầu từ việc phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, công nghệ chế biến thực phẩm ngày càng sâu, đa dạng, đa chức năng.

Tháo cơ chế thu hút đầu tư

Tuy nhiên, để đẩy mạnh chế biến rau quả lại là câu chuyện không hề dễ dàng. Ông Ngô Quang Tú, đại diện Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ NN&PTNT) chỉ ra những nút thắt đang cản đường chế biến, bảo quản rau quả. Cụ thể, tình trạng thiếu nguyên liệu vẫn xảy ra (nguyên liệu mới đáp ứng 50-60% công suất chế biến), nguyên nhân là do diện tích canh tác nhỏ lẻ, phân tán, không đồng nhất, chế biến theo mùa vụ (2-3 tháng/năm). Chất lượng an toàn thực phẩm chưa đảm bảo (không đều, không ổn định, kích thước, mùi vụ, màu sắc, dinh dưỡng...), một số loại rau quả giá thành còn cao.

Trong khi đó, doanh nghiệp chế biến rau quả thiếu vốn sản xuất (hơn 80% số cơ sở có quy mô dưới 2 tỷ đồng); khó khăn về mặt bằng sản xuất, bảo quản sau thu hoạch kém... Chưa kể về thị trường, sản phẩm chế biến càng sâu thì thị trường tiêu thụ càng hẹp...

Trên cơ sở đó, ông Tú đề xuất các giải pháp tháo gỡ như tổ chức lại sản xuất, vùng nguyên liệu theo hướng đẩy mạnh liên kết sản xuất theo chuỗi để đảm bảo nguyên liệu cho chế biến. Nghiên cứu ban hành văn bản quy phạm pháp luật quản lý liên kết chuỗi, có quy định điều phối các hoạt động liên kết, nâng cao năng lực chế biến, bảo quản rau quả...

Trước thực trạng trên, PGS.,TS. Phạm Anh Tuấn, Viện trưởng Viện Cơ điện nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch, cho rằng hiện năng lực chế biến đạt trên 1,1 triệu tấn nhưng để nâng lên gấp đôi trong những năm tới cần đầu tư vào công nghệ phù hợp. Theo đó, cần xác định đối tượng, sản phẩm, quy mô sản xuất, khả năng đầu tư và thị trường mục tiêu, lựa chọn nhà tư vấn công nghệ thiết bị phù hợp, đầu tư xây dựng nhà xưởng...

Ở góc độ doanh nghiệp, ông Nông Ngọc Trung, Chủ tịch Công ty CP Nông lâm nghiệp Cánh Đồng Vàng (chuyên sấy sản phẩm rau quả xuất khẩu), nhận định nhu cầu của thế giới đối với sản phẩm rau quả chế biến rất lớn. Riêng Cánh Đồng Vàng luôn có đơn hàng ổn định, như ớt khoảng 100.000 tấn; mít, xoài khoảng 20.000 tấn mỗi năm. Hiện tại, vải thiều Lục Ngạn đang vào vụ, doanh nghiệp nhận được đơn hàng 7.000 tấn từ thị trường Đài Loan.

Với mục tiêu nâng tầm giá trị thương hiệu, chất lượng nông sản Việt trên thị trường toàn cầu, ông Trung mong muốn được hợp tác với các hợp tác xã, hộ nông dân có vùng nguyên liệu, sản lượng ổn định.

Liên quan tới tiêu thụ rau quả, bà Cầm Thị Phong, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Sơn La cho biết, có thể kể đến trong niên vụ nhãn 2021, tỉnh đã ban hành chính sách hỗ trợ hợp tác xã, doanh nghiệp, hộ sản xuất kinh phí xây dựng lò sấy nông sản, container lạnh. Nhờ đó, toàn tỉnh đã chế biến được 65.000 tấn nhãn, giải tỏa áp lực tiêu thụ trong bối cảnh dịch COVID-19 diễn biến căng thẳng. Kết quả trên đạt được là do Sơn La đã tập trung thu hút dòng vốn đầu tư phát triển chuỗi liên kết, xây dựng các cơ sở chế biến trên địa bàn như Nafood, Doveco...