Sản xuất nông nghiệp có nhiều khởi sắc
Năm 2023, sản xuất nông - ngư nghiệp tương đối thuận lợi, tăng trưởng khu vực I ước đạt 2,65%. Thực hiện cơ cấu lại ngành nông nghiệp (NN) gắn với chuỗi giá trị sản phẩm NN và xây dựng nông thôn mới (NTM). Đến nay, toàn tỉnh Bến Tre có 67 tổ hợp tác, 71 hợp tác xã (HTX) tham gia vào chuỗi giá trị các sản phẩm NN chủ lực và đạt được một số kết quả khả quan.
Theo đánh giá của Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) tỉnh Bến Tre Đoàn Văn Đảnh, hoạt động sản xuất NN đang dần chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ, manh mún sang chủ động hơn trong việc tham gia các liên kết ngang - dọc trong chuỗi. Mạnh dạn áp dụng các biện pháp khoa học công nghệ, sản xuất sạch theo tiêu chuẩn hữu cơ, GAP, xây dựng vùng nguyên liệu.
Sản xuất NN từng bước chuyển đổi theo quy chuẩn sạch, an toàn, tập trung xây dựng chứng nhận chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu sản phẩm, truy xuất nguồn gốc, hướng đến phát triển thương hiệu cho sản phẩm NN tỉnh. Hiện toàn tỉnh có 13 mã số vùng trồng nội địa với tổng diện tích 642,91ha; 36 vùng trồng được cấp 71 mã số với diện tích 594,41ha, đang chuẩn bị thiết lập mã số vùng trồng trên cây dừa; có 5 doanh nghiệp được cấp mã số cơ sở đóng gói xuất khẩu. Tỷ lệ giá trị sản phẩm nông - lâm - thủy sản chủ lực được sản xuất theo các quy trình sản xuất tốt (GAP) và tương đương đạt 11,2% (24.818ha); thực hiện liên kết đạt 21,65%. Công tác thanh tra, kiểm tra được tăng cường, nhất là về cung ứng vật tư NN.
Về trồng trọt, diện tích và sản lượng dừa tăng nhẹ, giá dừa khô giảm mạnh những tháng đầu năm nhưng hiện đã tăng trở lại, bình quân 70 - 80 ngàn đồng/chục. Trong năm phát triển được 1.300ha dừa hữu cơ, nâng tổng diện tích dừa hữu cơ toàn tỉnh lên 18.500ha. Tình hình sâu bệnh hại dừa có chiều hướng giảm, toàn tỉnh hiện còn 328,73ha nhiễm sâu đầu đen, giảm 844,83 ha (tỷ lệ 61%) và 4.511,5ha nhiễm bọ cánh cứng, giảm 105ha.
Bến Tre đã và đang triển khai quyết liệt các biện pháp để xử lý, nhất là dập dịch sâu đầu đen. Diện tích gieo trồng lúa giảm 4,21% so với cùng kỳ nhưng sản lượng tăng 0,92% và đạt 104,27% kế hoạch. Sản xuất rau màu tương đối thuận lợi với diện tích 4.133ha, sản lượng 91.990 tấn, tăng 0,97% so với cùng kỳ và đạt 87,61% kế hoạch. Diện tích trồng cây ăn trái giảm 1,29% so với cùng kỳ, sản lượng 310.691 tấn. Xây dựng vùng sản xuất tập trung bưởi da xanh với diện tích 387,58ha. Thí điểm vùng sản xuất tập trung sầu riêng với tổng diện tích chứng nhận VietGAP là 76,5ha. Đề án thành lập Trung tâm Giống và Hoa kiểng tỉnh, Đề án Phát triển cây giống và hoa kiểng Chợ Lách đang được tập trung triển khai thực hiện.
Chăn nuôi gia súc, gia cầm phát triển ổn định. Tổng đàn bò tăng 11,98%, đàn heo tăng 7,53% và đàn gia cầm tăng 11,20%. Dịch bệnh có xảy ra nhưng không đáng kể với 4 ổ dịch viêm da nổi cục, 1 ổ dịch tả lợn châu Phi và 1 ổ dịch lở mồm long móng nhưng được phát hiện, xử lý kịp thời nên không lây lan. Hiện nay, cả tỉnh có 15.140 trang trại chăn nuôi gia súc, gia cầm quy mô vừa và nhỏ. Ngành NN đã xây dựng thí điểm vùng sản xuất tập trung chăn nuôi heo gắn với phát triển chuỗi giá trị trên địa bàn huyện Giồng Trôm; vùng sản xuất tập trung chăn nuôi bò trên địa bàn huyện Ba Tri.
Nuôi thủy sản tiếp tục phát triển, diện tích tăng 0,24%, sản lượng thu hoạch tăng 4,29% so với cùng kỳ. Nuôi tôm biển ứng dụng công nghệ cao (CNC) được người dân đầu tư khá về quy mô và có cải tiến khâu thiết kế kỹ thuật hạ tầng vùng nuôi, diện tích đạt 500ha, đạt 100% kế hoạch, lũy kế toàn tỉnh ước đạt 3.067ha, đạt 76,66% kế hoạch 2021 - 2025, sản lượng ước đạt 128.072 tấn, đạt 88,94% kế hoạch.
Đồng thời Bến Tre đang triển khai dự án hạ tầng vùng nuôi tôm ứng dụng CNC tại huyện Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú để tăng diện tích nuôi. Khai thác thủy sản không thuận lợi do ảnh hưởng thời tiết, tuy nhiên sản lượng đánh bắt tăng 1,26% so với cùng kỳ.
Mặc dù sản xuất NN có nhiều thuận lợi nhưng giá cả một số mặt hàng nông sản giảm trong những tháng đầu năm, ảnh hưởng đến việc tái sản xuất và thu nhập của người dân. Dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi còn diễn ra làm ảnh hưởng đến năng suất, sản lượng, chất lượng sản phẩm. Tình hình liên kết doanh nghiệp và HTX chưa thật sự bền vững; năng lực một số HTX có chuyển biến nhưng còn chậm.
Định hướng trong năm 2024, theo Giám đốc Sở NN&PTNT Bến Tre Đoàn Văn Đảnh, ngành NN tập trung đẩy mạnh tuyên truyền, chuyển đổi nhận thức từ tư duy sản xuất NN sang tư duy kinh tế NN. Tổ chức lại sản xuất theo hướng tập trung, siêu thâm canh, đầu tư nâng cấp, hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật phục vụ sản xuất. Áp dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến vào sản xuất NN.
Tăng cường giám sát, quản lý mã số vùng trồng, chỉ dẫn địa lý; quản lý, khai thác, phát triển các nhãn hiệu đã được xây dựng và bảo hộ. Tiếp tục xây dựng hệ thống nhận diện địa phương, nhận diện thương hiệu, sản phẩm đặc trưng của Bến Tre. Phát huy thế mạnh kinh tế biển, triển khai hiệu quả chương trình phát triển thủy sản. Tiếp tục triển khai kế hoạch phát triển 4.000ha nuôi tôm biển ứng dụng CNC. Trong năm 2024, vận động hỗ trợ kỹ thuật phát triển ít nhất 500ha nuôi tôm biển ứng dụng CNC.