Tác động của xung đột giữa Nga - Ukraine với việc khơi thông vốn cho doanh nghiệp khởi nghiệp Việt Nam

TS. Vương Quốc Thắng - Uỷ ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội

Xung đột Nga - Ukraine tác động sâu sắc đến kinh tế, tài chính thế giới. Trong đó, Việt Nam có thể hứng chịu ít nhiều tác động, đặc biệt là hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp khởi nghiệp nói riêng. Trên cơ sở nhận diện xung đột Nga - Ukraine và tác động đối với thị trường Việt Nam cùng những rào cản đối với doanh nghiệp khởi nghiệp, bài viết đề xuất giải pháp nhằm khơi thông dòng vốn hiệu quả cho đối tượng doanh nghiệp này.

Đặt vấn đề

Khi thế giới vừa trải qua đại dịch COVID-19 đầy cam go và chỉ vừa mới bước vào giai đoạn phục hồi, xung đột Nga – Ukraine nổ ra, tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế toàn cầu vốn đã suy kiệt trong hai năm trước đó. Là nước có độ mở kinh tế cao và đang hội nhập sâu vào kinh tế thế giới, Việt Nam khó tránh khỏi những ảnh hưởng từ cuộc xung đột Nga - Ukraine.

Xung đột Nga - Ukraine đã tác động và ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam. Sự đứt gãy chuỗi cung ứng mà Nga và Ukraine là những mắt xích cốt lõi đã tác động đến cả những thị trường liên đới khác, liên quan đến các giao dịch thanh toán với các doanh nghiệp.

Hiện nay, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam đã bị ngừng trệ đơn hàng, đứt gãy nguồn cung nguyên vật liệu, chậm trễ trong các biện pháp thanh toán. Theo đó, vấn đề vốn nổi lên như một vấn đề cấp bách đối với doanh nghiệp Việt Nam, nhất là khu vực doanh nghiệp khởi nghiệp Việt Nam.

Tác động của xung đột Nga - Ukraine đến kinh tế Việt Nam

Xung đột Nga – Ukraine xảy ra làm cho nền kinh tế Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng bởi kinh tế thế giới ảnh hưởng suy giảm và lạm phát tăng cao, đặc biệt kinh tế của các đối tác quan trọng với Việt Nam suy giảm sâu sẽ tác động trực tiếp và gián tiếp đến đà phục hồi và phát triển kinh tế Việt Nam.

Theo đó, năm 2019, với sự xuất hiện và bùng nổ của đại dịch COVID-19 đã làm đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu, tác động tiêu cực đến kinh tế toàn cầu và chưa được khắc phục hoàn toàn thì xung đột giữa Nga – Ukraine xảy ra càng làm trầm trọng hơn sự phục hồi của nền kinh tế. Điều này ảnh hưởng nặng nề tới nguồn cung nguyên, nhiên vật liệu dùng cho sản xuất của Việt Nam, tác động trực tiếp đến lạm phát và tăng trưởng.

Chuỗi cung ứng toàn cầu bị gián đoạn cũng làm ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, nhất là đối với kim ngạch xuất các mặt hàng điện vì cả Nga và Ukraine là 2 nhà cung cấp vật liệu quan trọng để sản xuất nguyên phụ liệu cấu thành thiết bị điện tử như nicken, palladium. Mặt khác, xung đột giữa Nga – Ukraine cùng với cấm vận sẽ khiến việc giao – nhận hàng xuất, nhập khẩu của Việt Nam với Nga bị chậm, chi phí vận chuyển tăng cao, làm tăng chi phí.

Ngoài ra, khi đồng Rub mất giá cũng ảnh hưởng đến nguồn thu và ngoại tệ của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Việc Nga bị loại khỏi hệ thống của SWIFT cũng có những tác động nhất định đến hoạt động kinh tế và giao thương của Việt Nam. Nhiều hãng tàu đã từ chối nhận đơn vận chuyển hàng hóa từ Việt Nam đi Nga. Giá cước vận tải tiếp tục tăng cao cùng với sự chậm trễ trong vận chuyển sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến thương mại hàng hóa. Thêm nữa, việc cấm vận hàng không cũng sẽ dẫn đến các hãng hàng không phải chọn đường bay dài hơn, chi phí tăng, áp lực gia tăng chi phí hậu cần logistics lên hệ thống vận chuyển toàn cầu.

Xung đột giữa Nga – Ukraine cũng là một trong những nguyên nhân làm gia tăng thêm giá hàng hóa trên thị trường thế giới, vì vậy, xung đột kéo dài sẽ gây khó khăn về nguồn cung các loại nguyên, nhiên vật liệu này, ảnh hưởng tới quá trình phục hồi phát triển kinh tế Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sang Nga điện thoại các loại và linh kiện; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; hàng dệt may.

Ba nhóm hàng này chiếm khoảng 57% kim ngạch xuất khẩu sang Nga, đây sẽ là các nhóm hàng bị tác động nhiều nhất trong thời gian tới. Kim ngạch xuất khẩu nhóm sản phẩm nông nghiệp và thủy sản chiếm khoảng 15,8% tổng kim ngạch xuất khẩu, là nhóm sản phẩm cũng sẽ bị ảnh hưởng, mặc dù Nga không phải là thị trường lớn của các mặt hàng này.

Việt Nam xuất sang thị trường Nga và Ukraine lượng hàng hoá không lớn nhưng có sự lan tỏa ra khu vực Liên minh Á-Âu là thị trường Việt Nam đã ký hiệp định thương mại tự do (FTA). Do đó, sự đứt gãy hoạt động thương mại sẽ tác động đến cả những thị trường liên quan khác.

Việt Nam nhập khẩu từ Nga và Ukraine chủ yếu là lúa mỳ, hải sản, phân bón, gỗ và sản phẩm gỗ. Kim ngạch nhập khẩu gỗ trực tiếp từ Nga không lớn chỉ khoảng 2% tổng kim ngạch nhập khẩu gỗ. Tuy vậy, Việt Nam nhập khẩu gỗ khá lớn từ châu Âu với nguyên liệu gỗ của Nga.

Việt Nam cũng đối mặt với tình trạng lạm phát do giá dầu và khí đốt tăng khi xảy ra xung đột giữa Nga – Ukraine. Trong những năm gần đây, Việt Nam nhập siêu khoảng 6 tỷ USD đối với mặt hàng xăng dầu. Khi giá xăng dầu tăng cao, giá trị nhập siêu mặt hàng này cũng sẽ tăng. Giá dầu tăng cao đồng nghĩa gia tăng chi phí cho hầu hết ngành sản xuất, áp lực lạm phát với kinh tế toàn cầu càng lớn hơn. Việt Nam nhập khẩu ròng giá trị dầu mỏ và các sản phẩm từ dầu với gần 6 tỷ USD trung bình mỗi năm trong giai đoạn 2017 đến nay.

Khi giá dầu tăng cao, giá trị nhập khẩu ròng cũng sẽ tăng theo khiến tăng chi phí vận chuyển, buộc các doanh nghiệp nhập khẩu đầu vào của Việt Nam phải dừng giao dịch với Nga và chuyển sang tìm các nhà cung ứng từ Úc, Nam Mỹ và châu Phi. Việc giao dịch với các doanh nghiệp Nga trực tiếp bị cấm vận hoặc gián tiếp vì khó khăn trong việc chi trả thanh toán sẽ trở nên phức tạp hơn nhiều. Tình trạng này sẽ gây thiếu hụt, chậm trễ và tăng chi phí trong dây chuyền sản xuất nhiều ngành công nghiệp.

Nga có vai trò quan trọng trong việc cung cấp xăng dầu và khí đốt cho thế giới, nhất là cho khu vực Liên minh châu Âu (EU). Các lệnh trừng phạt Nga đã khiến giá dầu và khí đốt tự nhiên tăng vọt, đẩy mặt bằng giá cả của các hàng hóa tăng cao, đe dọa tới tính liên tục của hoạt động sản xuất và sức cầu tiêu dùng, gia tăng lạm phát. Theo Dragon Capital, Việt Nam chỉ nhập khẩu khoảng 1,5 tỷ USD phân bón, sắt thép, than và nông sản từ Nga và Ukraine trong những năm gần đây. Trong khi, xuất khẩu của Việt Nam đạt gần 2,4 tỷ USD cho điện thoại di động, hàng may mặc và thiết bị điện tử. Như vậy, bên cạnh xăng, dầu và gas, các loại nông sản như: lương thực, bông; thức ăn chăn nuôi; phân bón; kim loại công nghiệp; sắt thép xây dựng tăng cao sẽ tạo áp lực đối với mục tiêu kiểm soát lạm phát của Việt Nam.

Xung đột giữa Nga – Ukraine cũng tác động đến ngành Du lịch Việt Nam. Năm 2019, trước khi xảy ra đại dịch COVID-19, Việt Nam đón hơn 646 nghìn lượt khách Nga, chiếm 3,58% tổng lượng khách quốc tế đến Việt Nam. Trung bình 1 du khách Nga chi tiêu ở Việt Nam khoảng 1.600 USD cho 1 chuyến thăm, cao hơn mức trung bình 900 USD của khách du lịch quốc tế. Tuy nhiên, với việc xảy ra xung đột với Ukraine, đồng Rub mất giá, lạm phát cao, kinh tế Nga đối diện với khủng hoảng và ảnh hưởng đến quyết định đi du lịch của người Nga. Bên cạnh đó, các hãng hàng không Nga không được phép đưa công dân của họ ra nước ngoài. Chỉ riêng khách Nga đã làm thất thu cho lĩnh vực du lịch Việt Nam khoảng 1,03 tỷ USD. Con số này cho thấy, Nga là thị trường đầy tiềm năng của du lịch Việt Nam. Nhìn chung, kinh tế Việt Nam không tránh khỏi những hệ lụy từ xung đột Nga – Ukraine.

Doanh nghiệp khởi nghiệp Việt Nam và rào cản trong tiếp cận nguồn vốn

Việt Nam là quốc gia khởi nghiệp. Hệ sinh thái khởi nghiệp đã được thiết lập từ Trung ương tới các địa phương với nhiều mô hình khởi nghiệp thành công. Tuy nhiên, trước những tác động từ xung đột Nga – Ukraine, tức thời, các doanh nghiệp bao gồm cả doanh nghiệp khởi nghiệp Việt Nam gặp nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt là vấn đề tiếp cận nguồn vốn. Khi xung đột xảy ra, Ukraine về cơ bản đóng cửa thương mại và kinh doanh và chỉ có hàng hóa và vật tư thiết yếu mới được vào nước này qua biên giới Ba Lan.

Các doanh nghiệp có trụ sở tại Việt Nam phải đối diện với những thách thức liên quan đến thương mại với Nga và Ukraine. Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam bị ngừng trệ đơn hàng, đứt gãy nguồn cung nguyên vật liệu, chậm trễ trong các biện pháp thanh toán. Doanh nghiệp gặp khó khi chi phí sản xuất kinh doanh cao làm giảm sức cạnh tranh. Thực tế này được minh chứng qua số liệu doanh nghiệp rút khỏi thị trường trong 8 tháng đầu năm 2023 lên tới 15.600 đơn vị. Vốn đăng ký của số lập mới và tái gia nhập thị trường cũng giảm gần 20% so với cùng kỳ 2022. Điều này phản ánh xu thế quy mô nhỏ dần của doanh nghiệp mới thành lập.

Nghịch lý nữa là nền kinh tế thừa tiền nhưng doanh nghiệp lại khát vốn, kiệt sức. Ba năm sau COVID-19, ảnh hưởng bởi xung đột Nga – Ukraine, năng lực về vốn của doanh nghiệp, đăc biệt là doanh nghiệp khởi nghiệp cạn kiệt, ngân hàng khó cho vay trong khi người muốn lại không được vay. Tăng trưởng tín dụng mới đạt 5,5% tính tới hết tháng 8 năm 2023, chưa đạt một nửa mục tiêu năm nay (14%).

Trước tình hình đó, nhu cầu về vốn nổi lên như một vấn đề cấp bách đối với doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là lĩnh vực doanh nghiệp khởi nghiệp. Theo các chuyên gia kinh tế, có 3 rào cản mà các doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp vừa và nhỏ thường gặp phải trong tiếp cận vốn vay là không có tài sản thế chấp, báo cáo tài chính không đáp ứng được các quy định của ngân hàng và thiếu những kế hoạch kinh doanh khả thi. Riêng yếu tố đầu tiên, theo khảo sát của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), có đến 83% doanh nghiệp gặp phải vấn đề này.

Hình 1: Top 7 khó khăn ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp trong năm 2023

Tác động của xung đột giữa Nga - Ukraine với việc khơi thông vốn cho doanh nghiệp khởi nghiệp Việt Nam - Ảnh 1

Nguồn: Khảo sát doanh nghiệp thực hiện bởi Vietnam Report (Tháng 08/2023)

Thực tế hiện nay, cơ chế, chính sách, pháp luật hỗ trợ, thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp mặc dù đã cơ bản đầy đủ, song doanh nghiệp lĩnh vực này vẫn gặp phải những rào cản trong quá trình huy động, tiếp cận nguồn vốn từ các tổ chức tín dụng và các quỹ đầu tư rủi ro.

Cụ thể, về nguồn tài chính từ ngân sách nhà nước, để tiếp cận nguồn vốn từ các chính sách hỗ trợ, doanh nghiệp khởi nghiệp phải thực hiện nhiều thủ tục hành chính với nhiều bước, công đoạn xét duyệt với nhiều loại hồ sơ, giấy tờ.

Về nguồn vốn tín dụng, doanh nghiệp khởi nghiệp khó có thể dùng mô hình khởi nghiệp để làm tài sản bảo đảm khi vay vốn ở ngân hàng mặc dù pháp luật hiện hành đã cho phép chủ sở hữu quyền tài sản phát sinh từ quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ thông tin, hoạt động khoa học, công nghệ được dùng quyền tài sản đối với đối tượng quyền tác giả, quyền liên quan, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng; quyền sở hữu, quyền sử dụng kết quả nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, chuyển giao công nghệ; quyền khác trị giá được bằng tiền phát sinh từ quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ thông tin, hoạt động khoa học, công nghệ để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.

Đối với huy động vốn trên thị trường chứng khoán tập trung là tương đối khó khăn do các doanh nghiệp khởi nghiệp đa phần có quy mô vừa và nhỏ, chưa phải là công ty đại chúng, đồng thời để trở thành công ty đại chúng và niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung, các doanh nghiệp khởi nghiệp hầu tư như không đáp ứng được. Trong khi đó, doanh nghiệp khởi nghiệp phần lớn quy mô nhỏ, thậm chí rất nhỏ, cá biệt chỉ là một nhóm cá nhân tập hợp để xây dựng ý tưởng sáng tạo. Do vậy, vốn chủ sở hữu và năng lực tài chính đều hạn chế, thiếu hoặc không có tài sản bảo đảm, quyền sở hữu đối với tài sản lại có thể không rõ ràng. Vì vậy, thông thường, các doanh nghiệp khởi nghiệp rất khó đáp ứng được các điều kiện để tiếp cận với nguồn vốn từ các tổ chức tín dụng.

Việc tiếp cận vốn lần đầu đã khó, các lần tiếp cận vốn tiếp theo lại thêm phần khó khăn hơn, do khó duy trì tình trạng sử dụng vốn và chứng minh năng lực tài chính cho lần tiếp theo. Đối với các chủ thể mới gia nhập thị trường, việc phân tích và đánh giá khả năng sử dụng vốn khả thi với những “công thức” cho trước của các tổ chức tín dụng hầu như dẫn đến sự bế tắc về cơ hội vốn cho doanh nghiệp khởi nghiệp, bởi tất cả các yếu tố được xem xét đều ở mức độ “khởi đầu”, không dễ dàng cho việc nhận được nguồn vốn. Đối với pháp nhân mới thành lập, chưa có số liệu về tình hình hoạt động kinh doanh, đánh giá khả năng tài chính của khách hàng thông qua phần vốn thực góp của các thành viên/cổ đông thể hiện trên cân đối kế toán của doanh nghiệp so với vốn điều lệ đã đăng ký trên giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp/giấy chứng nhận đầu tư…

Giải pháp khơi dòng vốn cho doanh nghiệp khởi nghiệp

Trước những khó khăn vướng mắc trên, cần có những giải pháp đồng bộ và nhiều bên để khơi dòng vốn cho các doanh nghiệp khởi nghiệp, cụ thể:

Về tiếp cận vốn vay, cần tạo cơ sở pháp lý để doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn vay trong nước bằng con đường truyền thống là vay vốn của tổ chức tín dụng. Như đã phân tích, với quy định và các điều kiện ràng buộc chặt chẽ “trách nhiệm của người quyết định cho vay” như hiện nay sẽ có không ít doanh nghiệp khởi nghiệp không thể tiếp cận được với vốn tín dụng từ chính các tổ chức tín dụng. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước cần quy định rõ điều kiện cấp tín dụng cho nhóm chủ thể mới này; đồng thời, cần có quy định ưu đãi hoặc cơ chế tái cấp vốn cho các tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn để cho vay đối với doanh nghiệp khởi nghiệp với tỷ trọng lớn. Chỉ có cách thức như vậy, cơ hội có vốn của các doanh nghiệp khởi nghiệp mới có khả năng trở thành hiện thực.

Các tổ chức tín dụng cũng cần đa dạng hóa hơn nữa các sản phẩm cho vay, tạo điều kiện cho nhóm chủ thể doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp khởi nghiệp có cơ hội tiếp cận vốn. Chẳng hạn, rút ngắn quy trình cấp tín dụng, phát triển hoạt động cho vay khép kín từ khâu cho vay đến giám sát sử dụng vốn thông qua kiểm soát dòng tiền của toàn bộ quá trình (từ khâu thu mua, sơ chế, sản xuất, xuất khẩu và thanh toán…). Bên cạnh việc rút gọn quy trình cấp tín dụng, các tổ chức tín dụng cũng cần sử dụng tối đa thông tin có được về khách hàng vay vốn - doanh nghiệp khởi nghiệp.

Ngoài nguồn vốn tín dụng, một nguồn vốn quan trọng khác là từ các quỹ hỗ trợ. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước cần phối hợp cùng với các bộ, ngành có liên quan để thực hiện cơ chế bảo lãnh vay vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hay doanh nghiệp khởi nghiệp; cần nhanh chóng thành lập các quỹ đặc biệt của Nhà nước dành cho các doanh nghiệp khởi nghiệp như: Quỹ đầu tư tác động, Quỹ sáng kiến trong giai đoạn đầu, Quỹ đầu tư mạo hiểm theo ngành nghề của Nhà nước... Hoạt động của các quỹ này bên cạnh nguồn vốn “mồi” của Nhà nước, cũng có thể áp dụng cơ chế “xã hội hóa” nguồn vốn. Phương thức xã hội hóa có thể cân nhắc thực hiện như gọi vốn cộng đồng, góp vốn của các quỹ đầu tư mạo hiểm.

Đối với các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo (startup), trong số các lựa chọn nguồn vốn thì các nhà đầu tư trong giai đoạn sớm như nhà đầu tư thiên thần và quỹ đầu tư mạo hiểm là hai đối tượng phổ biến được trông đợi nhiều nhất, phù hợp với đa số startup Việt Nam.

Tại Việt Nam, hoạt động đầu tư thiên thần còn khá mới mẻ với cả nhà đầu tư và startup. Tuy vậy, thời gian gần đây đã bắt đầu hình thành các mạng lưới nhà đầu tư thiên thần trong nước. Vào tháng 4/2017, mạng lưới nhà đầu tư thiên thần Việt Nam (iAngel Network) được thành lập với trên 80 thành viên là các nhà đầu tư thiên thần cá nhân; năm 2018 Câu lạc bộ nhà đầu tư thiên thần Việt Nam (Vietnam Angel Network - VAN) được thành lập với các hoạt động chính: chia sẻ kinh nghiệm về đầu tư thiên thần, kết nối nhà đầu tư thiên thần với dự án khởi nghiệp và quản lý đầu tư các dự án startup. Dù chưa có số liệu thống kê về tổng giá trị đầu tư của nhà đầu tư thiên thần trong nước vào startup do các khoản đầu tư do cá nhân thực hiện không thuộc đối tượng cần báo cáo theo quy định nhà nước; tuy nhiên đa số startup Việt Nam trong giai đoạn hạt giống, cùng với trở ngại liên quan tới tiếng Anh nên tìm kiếm nhà đầu tư thiên thần trong nước được đa số các startup lựa chọn để tiếp cận chào đầu tư.

Số liệu từ AngelList cho thấy, có trên 5.400 nhà đầu tư thiên thần nước ngoài quan tâm tới thị trường Việt Nam. Trên thực tế đã có một số startup của Việt Nam đã nhận được đầu tư từ nhà đầu tư thiên thần nước ngoài như: WeFit, Logivan, Bizzi, Vibeji,… Tuy vậy, điểm hạn chế của các startup Việt Nam là phần lớn đang giải quyết nhu cầu của trong nước chứ chưa hướng đến thị trường rộng hơn như Đông Nam Á và châu Á, do đó khó có thể xây dựng được các công ty có giá trị tỷ đô la. Điều này làm cho các nhà đầu tư thiên thần nước ngoài vẫn còn e dè với hoạt động đầu tư vào startup Việt Nam.

Bảng 1: Các phương pháp huy động vốn đầu tư cho khởi nghiệp

 

Các nhà đầu tư

Các nhà đầu tư
không chính thức

Các nhà đầu tư
chính thức

Đối tượng huy động vốn

Nhà sáng lập, bạn bè, người thân

Các nhà đầu tư thiên thần

Các quỹ đầu tư mạo hiểm

Quy mô huy động vốn

<25.000 USD

25.000-500.000 USD

3-5 triệu USD

Các giai đoạn gọi vốn

Giai đoạn gọi vốn hạt giống

Giai đoạn mới tăng trưởng

Giai đoạn tăng trưởng mạnh

Nguồn: Tổ chức hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD)

Quỹ đầu tư mạo hiểm, tùy theo quy mô có thể đầu tư vốn cho startup trong vòng seed, early-stage hay growth. Quỹ đầu tư mạo hiểm là quỹ đầu tư quản lý tiền của các nhà đầu tư tìm kiếm cổ phần trong các startup hoặc các doanh nghiệp vừa và nhỏ có tiềm năng tăng trưởng mạnh và lợi nhuận cao, từ đó thu lại lợi nhuận về cho các nhà đầu tư vào quỹ. Khác với nhà đầu tư thiên thần, quỹ đầu tư mạo hiểm đầu tư vào các doanh nghiệp khi doanh nghiệp đủ lớn và quỹ phải chọn lọc kỹ lưỡng, quản lý chuyên nghiệp sau khi đầu tư để đảm bảo khả năng hoàn vốn đầu tư và thu lợi nhuận.

Hiện nay, tại Việt Nam có trên 40 quỹ đầu tư mạo hiểm quy mô lớn nhỏ đang hoạt động, trong đó có khoảng 10 quỹ nước ngoài được biết đến nhiều, gồm có 3 quỹ chính là: IDG Ventures Vietnam (IDGVV), CyberAgent Ventures và DFJ VinaCapital với quy mô vốn đầu tư khác nhau, lớn nhất là IDGVV với hơn 100 triệu USD, sau đó là CyberAgent Ventures khoảng hơn 20 triệu USD. Trong nước, có khoảng 10 quỹ đầu tư mạo hiểm đã được thành lập và tham gia vào thị trường đầu tư mạo hiểm, trong đó một số quỹ như: FPT Ventures, CMC Innovation Fund, 500 Startups Vietnam… là các quỹ tích cực thực hiện đầu tư mạo hiểm cho startup. Trong số 3.000 startup của Việt Nam đang hoạt động, chỉ có một số ít startup (chỉ khoảng dưới 3%) đã được đầu tư từ các quỹ đầu tư mạo hiểm như: Luxstay, JAMJA, Kynya, Propzy, OnPoint, Go2Joy, BuyMed, JupViec,…

Hoạt động khởi nghiệp sáng tạo đã và đang trở thành một làn sóng có sức lan tỏa mạnh mẽ trong xã hội, cộng đồng doanh nghiệp và thế hệ trẻ ở Việt Nam. Vốn đóng vai trò quan trọng với startup trong các giai đoạn phát triển, do vậy cần được startup hiểu rõ và có chiến lược tài chính phù hợp để dễ dàng hơn trong việc tiếp cận với các nguồn vốn, thúc đẩy quá trình xây dựng và phát triển doanh nghiệp hiệu quả.

Bên cạnh đó, các bộ, ngành cũng cần sớm ban hành văn bản sửa đổi, bổ sung hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành văn bản sửa đổi, bổ sung các văn bản để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong tổ chức và hoạt động của Quỹ tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ, Quỹ đầu tư khởi nghiệp nói chung và doanh nghiệp khởi nghiệp nói riêng. Sớm có quy định pháp lý cụ thể về hoạt động của các quỹ đầu tư thiên thần, quỹ đầu tư mạo hiểm khác, cụ thể là hướng dẫn về trình tự thủ tục đăng ký kêu gọi vốn tại các quỹ, cũng như giảm thiểu gánh nặng tài chính, miễn thuế trong giai đoạn khởi nghiệp, cung cấp các dịch vụ liên quan đến thủ tục đăng ký vay vốn, cung cấp phần mềm kế toán…

Bên cạnh các giải pháp về tiếp cận nguồn vốn, các doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp nhỏ và vừa cần chú trọng tới việc nâng cao năng lực, kỹ năng để có thể tiếp cận nguồn vốn kinh doanh hiệu quả. Chủ doanh nghiệp khởi nghiệp cũng cần phải chủ động, tích cực tìm các nguồn huy động vốn, nắm rõ trình tự, thủ tục vay vốn và chuẩn bị các điều kiện cần thiết để đảm bảo việc vay vốn được thành công, trong đó đặc biệt là chất lượng của dự án đầu tư, kinh doanh đang hướng đến. Đồng thời, tăng cường chất lượng quản trị trong hoạt động của doanh nghiệp để bảo đảm quản lý hiệu quả nguồn vốn vay trên thực tế.

Tài liệu tham khảo:

  1. Cường Ngô (2022), Xung đột Nga - Ukraine gây tăng giá xăng dầu, thiết bị y tế đến tiêu dùng, https://laodong.vn/kinh-doanh/xung-dot-nga-ukraine-gay-tang-gia-xang-dau-thiet-bi-y-te-den-tieu-dung-1019064.ldo;
  2. Minh Sơn (2022), “Cơn bão” giá hàng hóa và những rủi ro tới kinh tế Việt Nam, https://vnexpress.net/con-bao-gia-hang-hoa-va-nhung-rui-ro-toi-kinh-te-viet-nam-4436556.html;
  3. Văn Duẩn (2022), Xung đột Nga - Ukraine tác động thế nào đến xuất nhập khẩu nông sản của Việt Nam?, https://nld.com.vn/kinh-te/xung-dot-nga-ukraine-tac-dong-the-nao-den-xuat-nhap-khau-nong-san-cua-viet-nam-20220303190608766.htm;
  4. Phạm Thị Thanh Bình, Vũ Trường Sơn (2022), Kinh tế Việt Nam với ảnh hưởng xung đột Nga – Ukraine, https://tapchinganhang.gov.vn/kinh-te-viet-nam-voi-anh-huong-xung-dot-nga-ukraine.htm;
  5. Nguyễn Bích Lâm (2022), Khủng hoảng Nga-Ukraine: Hệ lụy, cơ hội và hướng đi cho kinh tế Việt Nam, https://baochinhphu.vn/khung-hoang-nga-ukraine-he-luy-co-hoi-va-huong-di-cho-kinh-te-viet-nam-102220403172506087.htm;
  6. Lê Hoàng (2022), Doanh nghiệp ‘dính đòn’ giữa xung đột Nga – Ukraine, https://thesaigontimes.vn/doanh-nghiep-dinh-don-giua-xung-dot-nga-ukraine/.
 
Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 10/2023