Tăng chất lượng tín dụng, giảm tỷ lệ nợ xấu
Sau gần 3 năm thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (Nghị quyết 42), Ngân hàng Nhà nước đã coi đó là nhiệm vụ trọng tâm nhằm xử lý nhanh, dứt điểm nợ xấu của các tổ chức tín dụng.đã khắc phục tồn tại, hạn chế trong công tác xử lý nợ xấu; tạo khuôn khổ pháp lý thống nhất, đồng bộ về xử lý nợ xấu.
Triển khai quyết liệt, hiệu quả, đồng bộ Nghị quyết 42
Theo đó, Ngân hàng Nhà nước đã phối hợp với các bộ, ngành liên quan triển khai quyết liệt, hiệu quả, đồng bộ các nhiệm vụ được giao; đồng thời phân tích tồn tại, hạn chế và nguyên nhân để có biện pháp xử lý kịp thời.
Bên cạnh công tác hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tiền tệ, ngân hàng và xử lý nợ xấu; hướng dẫn các tổ chức tín dụng, Công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam triển khai Nghị quyết 42; đổi mới công tác thanh tra, giám sát của các tổ chức tín dụng nhằm ngăn chặn, phát hiện, xử lý rủi ro, tồn tại và sai phạm, Ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo các tổ chức tín dụng đẩy nhanh tiến độ xử lý nợ xấu, nâng cao chất lượng tín dụng thông qua các hoạt động như: Thành lập Ban chỉ đạo, tổ công tác xử lý nợ xấu; rà soát danh mục tín dụng trong toàn hệ thống, đánh giá thực trạng nợ, nợ xấu; đôn đốc khách hàng xử lý nợ xấu, tránh tình trạng chây ỳ, không hợp tác; phân bổ lãi dự thu…
Tỷ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống tổ chức tín dụng trong giai đoạn 2016-2020 đã được kiểm soát, duy trì ở mức dưới 3% và giảm liên tục qua các năm: cuối năm 2016 đạt 2,46%; tháng 8/2017 đạt 2,45%; cuối năm 2017 đạt 1,99%; cuối năm 2018 đạt 1,9%; cuối năm 2019 đạt 1,63% và đến 31/5/2020 ở mức 1,86%. Lũy kế từ 15/8/2017 đến 31/5/2020, hệ thống các tổ chức tín dụng đã xử lý khoảng 293.880 tỷ đồng nợ xấu.
Cùng với đó, Công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam đã triển khai đồng bộ giải pháp như hoàn thiện khuôn khổ pháp lý; thực hiện nhiệm vụ xử lý nợ xấu, triển khai mua nợ theo giá trị trường; phối hợp, hỗ trợ tổ chức tín dụng trong thu hồi, xử lý nợ xấu…
Tuy nhiên, những tháng đầu năm 2020, trước những diễn biến phức tạp của dịch COVID-19, các tổ chức quốc tế tiếp tục điều chỉnh hạ dự báo tăng trưởng toàn cầu; Việt Nam cũng không nằm ngoài vùng ảnh hưởng này.
Dựa trên các kịch bản tăng trưởng GDP năm 2020 khoảng 4%, tỷ lệ nợ xấu nội bảng ước tính đến cuối năm 2020 ở mức 2,41% (tăng 0,78 điểm % so với cuối năm 2019), Ngân hàng Nhà nước đánh giá, chất lượng tín dụng toàn Ngành có xu hướng suy giảm, nợ xấu đang gia tăng nhanh trong 5 tháng đầu năm 2020. Nếu GDP tăng khoảng 5%, tỷ lệ nợ xấu nội bảng ước tính đến cuối năm 2020 ở mức 2,16% (tăng hơn 0,5 điểm % so với cuối năm 2019).
Bên cạnh đó, dịch COVID-19 đang tác động trực tiếp đến tình hình hoạt động, chất lượng tài sản và kết quả kinh doanh của tổ chức tín dụng. Trong khi đó, tăng trưởng kinh tế GDP 6 tháng đầu năm 2020 của Việt Nam chỉ đạt 1,81% (mức tăng thấp nhất cùng kỳ trong giai đoạn 2011-2020).
Biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng và giảm tỷ lệ nợ xấu
Ngân hàng Nhà nước cho rằng, để đảm bảo công tác xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 được triển khai hiệu quả, các tổ chức tín dụng phấn đấu đạt mục tiêu về tỷ lệ nợ xấu, tiếp tục phát huy vai kênh dẫn vốn chủ đạo; đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, cần tập trung một số biện pháp cơ bản góp phần nâng cao chất lượng tín dụng và giảm tỷ lệ nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng, như sau:
Thứ nhất, trong bối cảnh diễn biến phức tạp của dịch COVID-19, Chính phủ tiếp tục chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương chung tay hỗ trợ các tổ chức tín dụng triển khai Nghị quyết 42; đồng thời chỉ đạo các cấp hỗ trợ tối đa cho các tổ chức tín dụng trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm, thu hồi nợ.
Thứ hai, các bộ, ngành địa phương chủ động hướng dẫn các nhiệm vụ như: Bán nợ xấu và tài sản bảo đảm theo giá trị thị trường, phát triển thị trường mua bán nợ; cơ chế tiếp cận thông tin về tình trạng tài sản bảo đảm; quyền thu giữ tài sản bảo đảm; áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh chấp về nghĩa vụ giao và xử lý tài sản bảo đảm…
Thứ ba, quá trình phân loại, sắp xếp các doanh nghiệp, trọng tâm với doanh nghiệp nhà nước, cần được đẩy mạnh nhằm thực hiện tái cơ cấu, nâng cao năng lực tài chính, năng lực cạnh tranh; tạo điều kiện cho hệ thống tổ chức tín dụng xử lý nợ xấu, lành mạnh hóa tài chính.
Thứ tư, các bộ chủ quản chỉ đạo tập đoàn, tổng công ty, đơn vị thành viên thực hiện nghĩa vụ trả nợ, bảo lãnh khoản vay tại tổ chức tín dụng.
Thứ năm, Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu xây dựng, trình Chính phủ Đề án cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng giai đoạn 2021-2025 nhằm tiếp tục hỗ trợ, xử lý hiệu quả nợ xấu; góp phần thực hiện thành công mục tiêu cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng và chiến lược phát triển ngành Ngân hàng trong giai đoạn tiếp theo; rà soát chính sách về tín dụng, có giải pháp hạn chế nợ xấu.
Thứ sáu, trên cơ sở kết quả triển khai công tác xử lý nợ xấu theo Nghị quyết số 42 trong gần 3 năm vừa qua, Chính phủ đề xuất Quốc hội tiếp tục quan tâm, hỗ trợ quá trình xử lý nợ xấu nói chung, xử lý nợ xấu theo quy định và theo Nghị quyết số 42 nói riêng thông qua quyết định mục tiêu, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế-xã hội dài hạn và hàng năm.
Thứ bảy, Quốc hội xem xét khía cạnh xử lý nợ xấu khi quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia, đặc biệt là quy định liên quan đến thuế; qua đó, khắc phục tồn tại, tháo gỡ khó khăn, xử lý dứt điểm nợ xấu theo tinh thần chỉ đạo của Nghị quyết 42.
Trên thực tế, quá trình triển khai Nghị quyết 42 vẫn còn một số khó khăn, vướng mắc liên quan đến công tác triển khai, hướng dẫn thực hiện về bán nợ xấu và tài sản bảo đảm theo giá thị trường, phát triển thị trường mua bán nợ; cơ chế tiếp cận thông tin về tình trạng, quyền thu giữ tài sản bảo đảm; áp dụng thủ tục rút gọn giải quyết tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm, xử lý tài sản bảo đảm…