Tăng cường quản lý đối với thuế tài nguyên trong hoạt động khai thác khoáng sản
Thực trạng cơ chế chính sách về thuế tài nguyên trong khai thác khoáng sản ở Việt Nam đã đạt được những thành công nhất định trong việc điều tiết hoạt động khai thác và tạo nguồn thu ngân sách. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều bất cập trong việc định giá tài nguyên, giám sát khai thác và thu thuế, cùng với tình trạng khai thác trái phép và trốn thuế.

Tình trạng thất thu thuế tài nguyên từ hoạt động khai thác khoáng sản
Ở Việt Nam, Luật Thuế Tài nguyên ban hành vào năm 2009 và có hiệu lực từ năm 2010, trở thành nền tảng pháp lý quan trọng quy định về thuế tài nguyên tại Việt Nam. Luật này áp dụng đối với các hoạt động khai thác tài nguyên thiên nhiên, bao gồm khoáng sản.
Trong những năm qua, hệ thống chính sách thuế tài nguyên ở Việt Nam đã đóng góp đáng kể vào quản lý và điều tiết hoạt động khai thác khoáng sản, đồng thời tạo nguồn thu quan trọng cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, tình hình thực hiện và quản lý thuế tài nguyên vẫn gặp nhiều khó khăn.
Cụ thể, tình trạng thất thu thuế tài nguyên từ hoạt động khai thác khoáng sản vẫn còn tiếp diễn và ngày càng nghiêm trọng. Theo báo cáo, tổng nguồn thu từ thuế tài nguyên trong 10 năm qua đạt khoảng 157.000 tỷ đồng, chiếm khoảng 5-6% GDP mỗi năm. Đặc biệt, thuế từ hoạt động khai thác dầu khí chiếm phần lớn trong tổng nguồn thu từ thuế tài nguyên (82-83%), trong khi khai thác khoáng sản nội địa chỉ đóng góp khoảng 16-17%.
Mặc dù đóng góp vào ngân sách quốc gia có xu hướng tăng, nhưng mức đóng góp từ khai thác khoáng sản nội địa vẫn còn hạn chế, đặc biệt là ở các vùng khai thác quan trọng như: Quảng Ninh, Thái Nguyên và Lào Cai.
Theo đánh giá của cơ quan thuế, công tác quản lý tài nguyên nói chung, quản lý thu ngân sách nói riêng đối với hoạt động khai thác khoáng sản còn rất nhiều bất cập. Hiện tượng lãng phí, thất thoát tài nguyên, khai thác khoáng sản trái phép, trốn thuế còn phổ biến, gây thất thu NSNN hàng nghìn tỷ đồng mỗi năm.
Tại Việt Nam, mức thuế cao nhất đối với tài nguyên khoáng sản là 20%. Trên thực tế, nếu cộng thuế tài nguyên, tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, phí bảo vệ môi trường, tiền thuê đất... thì giá thành sản phẩm khai thác tài nguyên khá lớn. Tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên khó cạnh tranh, thậm chí nhiều DN lâm vào tình trạng kinh doanh thua lỗ. Điều này dẫn đến một số trường hợp chủ thể kê khai thuế không trung thực, khai thác vượt trữ lượng cho phép để đảm bảo lợi nhuận, dẫn đến công tác quản lý đối với hoạt động khai thác tài nguyên khoáng sản là hết sức khó khăn.
Một trong những thách thức lớn hiện nay là cơ chế định giá tài nguyên để tính thuế. Giá trị tài nguyên thường được xác định không sát với giá trị thực tế trên thị trường, dẫn đến thất thu thuế cho ngân sách.
Cơ chế kiểm tra, giám sát từ các cấp có thẩm quyền chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Tình trạng khai thác và xuất khẩu trái phép tài nguyên vẫn diễn ra ở nhiều địa phương. Bên cạnh những khó khăn khách quan, vấn đề trách nhiệm của các cơ quan quản lý cũng là nguyên nhân .
Nâng cao hiệu quả chính sách thuế tài nguyên trong hoạt động khai thác khoáng sản
Để nâng cao hiệu quả chính sách thuế tài nguyên, cần cải thiện công tác quản lý, giám sát, cũng như đưa ra các chính sách khuyến khích khai thác bền vững và bảo vệ môi trường. Theo đó, cần triển khai các giải pháp sau:
Thứ nhất, nâng cao hiệu quả định giá tài nguyên nói chung và tài nguyên khoáng sản nói riêng.
Việc định giá tài nguyên khoáng sản cần được cải thiện để phản ánh sát giá trị thị trường hơn. Nhà nước cần điều chỉnh giá tính thuế dựa trên các chỉ số thực tế và biến động thị trường để tránh tình trạng khai thác gian lận và thất thu thuế, đặc biệt đối với các loại khoáng sản có giá trị cao.
Bên cạnh đó, cần xem xét giảm thuế suất thuế tài nguyên phù hợp đối với các loại khoáng sản làm vật liệu xây dựng, quặng sắt, bô xít và các loại khoáng sản khác khai thác, chế biến tại các khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.
Thứ hai, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra.
Để chống thất thu thuế, các cơ quan chức năng cần tiếp tục đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra các hoạt động khai thác khoáng sản. Điều này không chỉ bao gồm giám sát trực tiếp tại mỏ mà còn phải có cơ chế liên thông giữa cơ quan thuế, Bộ Tài nguyên và Môi trường, và các cơ quan địa phương.
Ứng dụng các công nghệ hiện đại trong quản lý thuế tài nguyên khoáng sản nhằm tăng hiệu quả của công tác kiểm tra, giám sát sản lượng khai thác khoáng sản của các DN, tránh tình trạng khai báo không trung thực, trục lợi ngân sách nhà nước.
Thứ ba, tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng của nhà nước. Cần bổ sung các quy định cụ thể về cơ chế phối hợp giữa cơ quan thuế và cơ quan tài nguyên môi trường trong xác định sản lượng tài nguyên tính thuế.
Thứ tư, khuyến khích các DN khai thác khoáng sản đầu tư vào công nghệ xanh trong khai thác khoáng sản. Chính sách thuế tài nguyên khoáng sản cần được điều chỉnh theo hướng khuyến khích các DN đầu tư vào công nghệ khai thác bền vững và thân thiện với môi trường. Việc này không chỉ giúp bảo vệ tài nguyên thiên nhiên mà còn hạn chế tác động tiêu cực lên môi trường và cộng đồng dân cư tại các khu vực khai thác.