Hoàn thiện thuế tài nguyên trong bối cảnh hội nhập quốc tế, gắn với phát triển bền vững
Quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa và toàn cầu hóa đã gây áp lực lớn lên tài nguyên thiên nhiên. Sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, đã dẫn đến suy thoái môi trường, mất đa dạng sinh học và biến đổi khí hậu, đặt ra yêu cầu chung đối với các quốc gia trong việc tìm ra giải pháp để hòa hợp kinh tế, phát triển xã hội với bảo vệ môi trường. Trong đó, công cụ thuế nói chung và thuế đối với tài nguyên nói riêng là một trong những giải pháp để thúc đẩy tiến trình phát triển kinh tế bền vững của mỗi quốc gia.

Theo các chuyên gia, việc gia nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu một mặt mang lại nhiều cơ hội cho phát triển, tuy nhiên, cũng sẽ khiến Việt Nam đối diện với nhiều thách thức.
Để đảm bảo tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, Việt Nam phải tận dụng triệt để nguồn lực tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là nguồn tài nguyên không tái tạo. Do vậy, nếu không chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu xuất khẩu sẽ dẫn đến việc khai thác quá mức nguồn tài nguyên thiên nhiên và các vấn đề về môi trường sinh thái.
Tự do hóa thương mại cũng góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tuy nhiên hiện nay, nhiều dự án đầu tư nước ngoài vào Việt Nam có điểm giống nhau là hướng đến khai thác tài nguyên (đất, nước, môi trường, năng lượng...) giá rẻ của Việt Nam. Theo đó, một khi các địa phương vẫn chú trọng chạy theo thành tích tăng trưởng, không vì mục tiêu phát triển bền vững thì dẫn đến khai thác lãng phí nguồn tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường tại địa bàn nơi khai thác.
Tự do hóa thương mại với xu hướng là phải cắt giảm và tiến tới xóa bỏ hoàn toàn thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, trong đó có nhiều mặt hàng nhiên liệu khoáng sản. Điều này, dẫn đến đẩy mạnh hoạt động khai thác, chế biến sản phẩm tài nguyên để xuất khẩu, làm cạn kiệt nguồn tài nguyên. Theo đó, đòi hỏi cần có một chiến lược quản lý và sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững và hợp lý để đảm bảo nguồn lực phát triển lâu dài. Theo đó, chính sách pháp luật về tài nguyên cần có những quy định cụ thể đối với các hoạt động kinh tế trong nước nhằm định hướng và thúc đẩy sử dụng tối ưu và bảo vệ nguồn tài nguyên.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, các nước đã sử dụng chính sách thuế nội địa, trong đó có chính sách thuế tài nguyên để thay thế cho thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phải cắt giảm theo các cam kết quốc tế. Ví dụ: Trung Quốc đã thực hiện cải cách chính sách thuế tài nguyên, trong đó đã thay đổi cách tính thuế tài nguyên để tăng nguồn thu NSNN khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới; Indonesia đã tăng mức thuế suất thuế tài nguyên từ tháng 01/2015 khi dự kiến phải thực hiện cắt giảm thuế xuất khẩu theo cam kết quốc tế. Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) cũng khuyến nghị các nước sử dụng thuế nội địa để thực hiện các phương án cắt, giảm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu theo các cam kết quốc tế.
Do đó, để đảm bảo nguồn thu NSNN khi phải cắt, giảm thuế nhập khẩu, thuế xuất khẩu trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng thì việc sử dụng các chính sách thuế nội địa, trong đó có chính sách thuế tài nguyên là một trong những công cụ tài chính hiệu quả và khả thi.
Với tiềm năng về khoáng sản, Việt Nam có nhiều thuận lợi về nguồn lực để đưa nền kinh tế cất cánh. Ngành Công nghiệp khai khoáng những năm qua đã có những bước phát triển, đáp ứng được nhu cầu đầu vào cho các ngành sản xuất phục vụ quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, hạn chế việc phụ thuộc vào tài nguyên khoáng sản nhập khẩu. Tuy nhiên, hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên của nước ta trong những năm qua đã làm suy giảm trữ lượng của nhiều loại tài nguyên, trong đó một số loại khoáng sản theo tính toán sẽ biến mất trong tương lai gần.
Bên cạnh đó, công tác quản lý tài nguyên còn thiếu đồng bộ, việc khai thác, sử dụng tài nguyên chưa hợp lý dẫn đến lãng phí nguồn lực tài nguyên quốc gia, làm suy thoái tài nguyên cũng như tổn hại đến môi trường sinh thái, ảnh hưởng đến tiềm năng tăng trưởng kinh tế trong tương lai cũng như nhiều hệ lụy khôn lường về môi trường, khí hậu, từ đó tác động đến sinh kế lâu dài của người dân.
Kể từ khi có hiệu lực thi hành đến nay, Luật Thuế tài nguyên đã đảm bảo thể chế hóa các chủ trương, quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước về hoàn thiện chính sách tài chính đối với tài nguyên khoáng sản tại thời điểm ban hành, qua đó đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, trong thời gian thực hiện Luật thuế tài nguyên, bối cảnh kinh tế - chính trị - môi trường của thế giới cũng như tình hình kinh tế - xã hội đất nước ta đã có nhiều thay đổi.
Đặc biệt, gần đây, vấn đề biến đổi khí hậu trở thành một chủ đề nóng được toàn thế giới quan tâm bởi những vấn đề mà nó gây ra. So với 40 năm trước, hiện nay tần suất thiên tai trên Trái đất đã tăng gấp gần năm lần, với cường độ ngày càng mạnh và khó lường, gây thiệt hại nghiêm trọng đến kinh tế cũng như đời sống người dân của nhiều quốc gia. Trong đó, Việt Nam đứng thứ 6 trong số các quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất bởi các hiện tượng thời tiết cực đoan trong thập kỷ qua.
Trong 20 năm qua, Việt Nam đã ghi nhận 226 hiện tượng thời tiết cực đoan, làm chết trung bình 286 người mỗi năm và gây thiệt hại kinh tế hàng năm 2 tỷ USD. Biến đổi khí hậu đe dọa những nỗ lực tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo và phát triển bền vững của Việt Nam trong dài hạn. Do đó, Việt Nam xác định ứng phó với biến đổi khí hậu là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách và đã rất tích cực, chủ động tham gia cùng cộng đồng quốc tế trong giảm phát thải khí nhà kính, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước là nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vai trò, tầm quan trọng của tài nguyên thiên nhiên, yêu cầu khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả và bền vững tài nguyên, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập ngày một sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu, qua đó hình thành cơ chế tiếp cận, trách nhiệm quản lý, chế độ khai thác phù hợp nhằm phát huy tốt nhất nguồn lực tài nguyên cho phát triển KT-XH, đồng thời chú trọng việc bảo vệ các nguồn tài nguyên.
Từ những thay đổi về nhận thức đó, đặt ra yêu cầu phải điều chỉnh cơ chế, chính sách trong quản lý nguồn lực tài nguyên gắn với phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, trong đó có chính sách thuế tài nguyên. Cụ thể, tại Quyết định số 508/QĐ-TTg ngày 23/4/2022, Thủ tướng Chính phủ đặt ra yêu cầu cải cách thuế tài nguyên trong giai đoạn mới.
Theo đó, phải nghiên cứu để sửa đổi quy định, giá tính thuế tài nguyên, sản lượng tài nguyên tính thuế; sửa đổi khung thuế, mức thuế và miễn, giảm thuế tài nguyên theo hướng minh bạch, rõ ràng, đảm bảo chính sách thuế tài nguyên tiếp tục là công cụ hữu hiệu để góp phần quản lý, bảo vệ tài nguyên, khuyến khích sử dụng tài nguyên tiết kiệm, hiệu quả, khuyến khích chế biến sâu, nâng cao giá trị tài nguyên.