Tăng trưởng xanh trong lĩnh vực nông nghiệp và vấn đề đặt ra
Trong những năm qua, mô hình khai thác tài nguyên thiên nhiên ở quy mô không bền vững đã gây ra nhiều tác động tiêu cực đến môi trường, suy giảm đa dạng sinh học, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu toàn cầu… từ đó, kéo theo những vấn đề phức tạp, ảnh hưởng đến kinh tế - xã hội và tương lai. Để giải quyết bài toán này, xu thế tăng trưởng xanh nói chung, nông nghiệp xanh nói riêng trở thành một lựa chọn tất yếu, là mục tiêu mọi quốc gia đang hướng tới và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó. Bài viết này khái quát về tăng trưởng xanh, nông nghiệp xanh ở Việt Nam, từ đó đề xuất giải pháp thúc đẩy tăng trưởng xanh trong lĩnh vực nông nghiệp...
Khái quát về tăng trưởng xanh và nông nghiệp xanh
Tăng trưởng xanh
Tăng trưởng xanh là hiệu quả trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên sạch nhằm giảm thiểu ô nhiễm và các tác động môi trường, linh hoạt trong khả năng thích ứng với các hiểm họa thiên nhiên, quản lí môi trường và vốn tự nhiên trong phòng chống thiên tai (Ngân hàng Thế giới, 2012).
Theo Tổ chức Hợp tác Phát triển kinh tế (OECD), tăng trưởng xanh bao gồm thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, đồng thời đảm bảo rằng các nguồn tài sản tự nhiên tiếp tục cung cấp tài nguyên và dịch vụ môi trường cho sự thịnh vượng chung của chúng ta.
Bản chất của tăng trưởng xanh chính là mối quan hệ hai chiều giữa tăng trưởng kinh tế và môi trường, cụ thể: Tăng trưởng kinh tế không gây suy thoái môi trường, biến đổi khí hậu bằng việc sử dụng tối đa hóa hiệu quả của tài nguyên thiên nhiên mà đảm bảo không gây ô nhiễm môi trường qua việc sử dụng phương pháp sản xuất sạch hơn, tái chế tái sử dụng có hiệu quả; Tăng trưởng về môi trường tạo động cơ và nền tảng để tăng trưởng kinh tế, không chỉ quan tâm đến bảo vệ môi trường mà còn cần tạo điều kiện để phát triển.
Tăng trưởng xanh giúp cho việc phát triển kinh tế bền vững nhằm đáp ứng được các nhu cầu hiện tại mà không làm ảnh hưởng đến tài nguyên thiên nhiên (khoáng sản, nước…); tạo ra nhiều việc làm mới có tiềm năng; Giúp các quốc gia đạt được các lợi ích về kinh tế - xã hội theo nhiều mặt như phát triển năng lượng sạch, bền vững, bảo đảm an ninh lương thực thông qua hình thức biện pháp nông nghiệp bền vững và nhờ các hàng hóa, dịch vụ “xanh”, đảm bảo an ninh năng lượng...
Nông nghiệp xanh
Sự ra đời của hóa chất nông nghiệp đã dần làm mô hình nông nghiệp truyền thống có tác động không tốt đến môi trường và sức khỏe con người. Vì sự lạm dụng sử dụng hóa chất nông nghiệp của người nông dân. Do đó, mô hình nông nghiệp xanh ra đời. Nông nghiệp xanh được hiểu là nền nông nghiệp sản xuất áp dụng đồng bộ các quy trình, công nghệ sử dụng hợp lý, tiết kiệm vật tư đầu vào cho sản xuất nông nghiệp, sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Nền nông nghiệp xanh hướng đến nâng cao tính cạnh tranh của nông sản, phát triển công nghệ xử lý và tái sử dụng các phế thải, phụ phẩm, giúp cho người nông dân có chất lượng cuộc sống tốt hơn, ổn định kinh tế, bảo vệ tài nguyên và hệ sinh thái nông nghiệp.
Quan điểm về tăng trưởng xanh của Việt Nam
Đối với Việt Nam, tăng trưởng xanh là một nội dung quan trọng của phát triển bền vững và là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hòa giữa phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường.
Việt Nam là một trong những quốc gia bị tác động nặng nề bởi biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và nhiều yếu tố tác động từ bên ngoài. Đảng ta đã sớm xác định tăng trưởng xanh là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và các cấp chính quyền, các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp (DN) và tổ chức xã hội.
Chiến lược quốc gia Việt Nam về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2050 của Việt Nam đã xác định, “tăng trưởng xanh là một nội dung quan trọng của phát triển bền vững, đảm bảo phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả, bền vững và góp phần quan trọng thực hiện Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu”.
Tại Quyết định số 1658/QĐ-TTg năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt "Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050" đã đưa ra quan điểm thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030. Cụ thể:
- Tăng trưởng xanh góp phần thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng chống chịu trước các cú sốc từ bên ngoài, hiện thực hóa Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030, hệ thống quy hoạch quốc gia, chiến lược phát triển ngành, lĩnh vực.
- Tăng trưởng xanh là một phương thức quan trọng để thực hiện phát triển bền vững, đóng góp trực tiếp vào giảm phát thải khí nhà kính để hướng tới nền kinh tế trung hòa các-bon trong dài hạn.
- Tăng trưởng xanh lấy con người làm trung tâm, giúp giảm thiểu tính dễ bị tổn thương của con người trước biến đổi khí hậu; khuyến khích lối sống có trách nhiệm của từng cá nhân đối với cộng đồng và xã hội, định hướng thế hệ tương lai về văn hóa sống xanh, hình thành xã hội văn minh, hiện đại hài hòa với thiên nhiên và môi trường.
- Tăng trưởng xanh phải dựa vào thể chế và quản trị hiện đại, khoa học và công nghệ tiên tiến, nguồn nhân lực chất lượng cao, phù hợp với bối cảnh quốc tế và điều kiện trong nước.
- Tăng trưởng xanh định hướng đầu tư vào công nghệ tiên tiến, chuyển đổi số, kết cấu hạ tầng thông minh và bền vững; tạo động lực để đầu tư tư nhân đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế xanh.
- Tăng trưởng xanh là sự nghiệp của cả hệ thống chính trị, toàn dân, cộng đồng DN và các cơ quan, tổ chức liên quan, được thúc đẩy bằng tinh thần đổi mới sáng tạo và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, bền vững.
Theo đó, mục tiêu tăng trưởng xanh của Việt Nam cũng được thể hiện rõ: Chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng xanh hóa các ngành kinh tế, áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn thông qua khai thác và sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên và năng lượng dựa trên nền tảng khoa học và công nghệ, ứng dụng công nghệ số và chuyển đổi số, phát triển kết cấu hạ tầng bền vững để nâng cao chất lượng tăng trưởng, phát huy lợi thế cạnh tranh và giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường.
Đến năm 2030: Tiêu hao năng lượng sơ cấp trên GDP bình quân giai đoạn 2021 - 2030 giảm từ 1,0 - 1,5%/năm; tỷ trọng năng lượng tái tạo trên tổng cung cấp năng lượng sơ cấp đạt 15 - 20%; kinh tế số đạt 30% GDP; tỷ lệ che phủ rừng ổn định ở mức 42%; ít nhất 30% tổng diện tích cây trồng cạn có tưới được áp dụng phương pháp tưới tiên tiến, tiết kiệm nước; Tỷ trọng năng lượng tái tạo trên tổng cung cấp năng lượng sơ cấp đạt 15-20%, kinh tế số đạt 30 GDP, tỷ lệ che phủ rừng ổn định ở mức 42%.
Đến năm 2050: Tiêu hao năng lượng sơ cấp trên GDP bình quân mỗi giai đoạn (10 năm) giảm 1,0%/năm; tỷ trọng năng lượng tái tạo trên tổng cung cấp năng lượng sơ cấp đạt 25-30%; phấn đấu kinh tế số đạt 50% GDP; tỷ lệ che phủ rừng ổn định ở mức 42-43%; ít nhất 60% tổng diện tích cây trồng cạn có tưới được áp dụng phương pháp tưới tiên tiến, tiết kiệm nước; Tỷ trọng năng lượng tái tạo trên tổng cung cấp năng lượng sơ cấp đạt 25-30%...
Tăng trưởng xanh trong lĩnh vực nông nghiệp
Ngày 29/8/2018, Chính phủ ban hành Nghị định số 109/2018/NĐ-CP về nông nghiệp hữu cơ để hỗ trợ DN, hợp tác xã, trang trại, hộ gia đình, nhóm hộ sản xuất sản phẩm hữu cơ. Ngày 23/6/2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 885/QĐ-TTg, phê duyệt Đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2020-2030. Trên cơ sở từ thực tiễn, phương thức và định hướng chung của Đề án tái cơ cấu ngành Nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Đây cũng là chỉ đạo xuyên suốt của Trung ương, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ trong những năm qua và ngành Nông nghiệp đã và đang tích cực triển khai chủ trương này.
Để đạt được mục tiêu tăng trưởng xanh nói chung và tăng trưởng xanh trong lĩnh vực nông nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã có kế hoạch và chỉ đạo các đơn vị trong ngành Nông nghiệp thực hiện các nhiệm vụ. Cụ thể:
- Ngành Trồng trọt, thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp với lợi thế và nhu cầu thị trường, thích ứng biến đổi khí hậu từng vùng, miền; hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung ổn định, quy mô lớn. Sử dụng đất lúa linh hoạt, chuyển đổi đất trồng lúa kém hiệu quả sang cây trồng khác, vật nuôi, nuôi trồng thủy sản có hiệu quả cao hơn, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia. Đẩy mạnh áp dụng các quy trình sản xuất tiên tiến giảm sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc hóa học, gây ô nhiễm môi trường, làm thoái hóa đất canh tác và phát thải khí nhà kính...
- Ngành Chăn nuôi chuyển đổi phương thức chăn nuôi quy mô nhỏ, phân tán sang chăn nuôi trang trại, hình thành vùng chăn nuôi trọng điểm gắn với bảo vệ môi trường, an toàn sinh học và ứng dụng công nghệ...
- Ngành Thủy sản tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản bền vững phù hợp với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Áp dụng đối tượng nuôi trồng thủy sản mới có hiệu quả cao, khả năng chống chịu tốt, thích ứng với điều kiện khí hậu.
- Ngành lâm nghiệp phát triển vùng nguyên liệu rừng trồng tập trung, ưu tiên trồng rừng gỗ lớn, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả rừng trồng sản xuất theo hướng tối ưu hóa hệ thống sản xuất và chuỗi giá trị lâm sản theo tiêu chuẩn quản lý. Phục hồi rừng tự nhiên, phát triển nông lâm kết hợp, lâm sản ngoài gỗ theo hướng sản xuất hàng hóa.
- Phát triển thị trường cho các sản phẩm nông lâm thủy sản sản xuất theo hướng xanh dưới các hình thức hỗ trợ trực tiếp cho đầu tư và sản xuất, hỗ trợ về cơ sở hạ tầng, xúc tiến thương mại, hỗ trợ chi phí và thủ tục bảo hộ sở hữu trí tuệ, chi phí và thủ tục cấp chứng nhận, trợ giá sản phẩm, chuyển từ xuất khẩu tiểu ngạch sang xuất khẩu chính ngạch. Thực hiện nghiêm truy xuất nguồn gốc nông sản gắn với chỉ dẫn địa lý, xây dựng vùng nguyên liệu xanh.
Giải pháp thúc đẩy tăng trưởng nông nghiệp xanh
Để phát triển nông nghiệp xanh, trước mắt cần quan tâm đến các nội dung sau:
Thứ nhất, hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy đổi mới mô hình tăng trưởng ngành nông nghiệp theo hướng xanh, sinh thái; phát triển sản xuất nông nghiệp xanh – sạch – an toàn – bền vững; xây dựng lối sống xanh, tiêu dùng bền vững; đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ phát triển nông nghiệp xanh, sinh thái.
Thứ hai, thay đổi nhận thức từ nông dân, các tổ chức, hợp tác xã, cộng đồng dân cư… cùng với sự vào cuộc của cả hệ thống các ngành hàng. Các tổ chức quốc tế, khu vực tư nhân, hiệp hội ngành hàng cùng chung tay để hình thành hệ sinh thái xanh.
Thứ ba, chuyển đổi số và đổi mới công nghệ để sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường; tăng cường hợp tác và hội nhập quốc tế, huy động nguồn lực đầu tư cho tăng trưởng, phát triển nông nghiệp xanh; nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường; phát triển cơ sở hạ tầng xanh thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm phát thải khí nhà kính.
Thứ tư, tạo điều kiện cho các DN, nhà đầu tư nông nghiệp bằng cách mở rộng hạn điền, cho phép tích tụ đất đai nhiều hơn, cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp một cách thông thoáng, linh hoạt hơn; nghiên cứu thêm các mô hình liên kết khác trong nông nghiệp ngoài việc tổ chức lại các mô hình hợp tác xã, tổ hợp tác hiện nay để người nông dân tự liên kết, đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao.
Thứ năm, Nhà nước cần giữ vai trò “đầu tàu” trong việc tái cấp vốn, hỗ trợ cho các DN trong việc tiếp cận tín dụng đầu tư vào khoa học công nghệ trong nông nghiệp. Thúc đẩy tổ chức lại sản xuất theo chuỗi liên kết để ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất và quản trị chu trình sản xuất hàng hóa, truy xuất nguồn gốc.
Tài liệu tham khảo:
- Thủ tướng Chính phủ (2021), Quyết định số 1658/QĐ-TTg phê duyệt “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050”;
- Chính phủ (2018), Nghị định số 109/2018/NĐ-CP về nông nghiệp hữu cơ;
- Thủ tướng Chính phủ (2020), Quyết định số 885/QĐ-TTg, phê duyệt Đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2020-2030;
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2022), Kế hoạch hành động thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 – 2030;
- Ngân hàng Thế giới (2022), Báo cáo về Khí hậu và Phát triển cho Việt Nam;.