Thị trường trái phiếu xanh ASEAN +3 và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Ngô Sỹ Nam, Huỳnh Khánh Vy - Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh

Bài viết này phân tích quá trình phát triển của thị trường trái phiếu xanh tại ASEAN+3 từ một thị trường xuất hiện muộn đã trở thành thị trường trái phiếu xanh lớn thứ hai toàn cầu. Việt Nam học hỏi được nhiều kinh nghiệm trong phát triển thị trường trái phiếu xanh thông qua việc xem xét các yếu tố chính đóng góp vào thành công này, bao gồm cải cách pháp lý, tập trung thị trường nội địa, đa dạng hóa sản phẩm tài chính và nâng cao nhận thức cộng đồng. Bài viết cũng đưa ra những khuyến nghị cụ thể giúp Việt Nam có thể áp dụng kinh nghiệm của khu vực một cách hiệu quả, phù hợp với bối cảnh môi trường, kinh tế, và văn hóa đặc thù của Đất nước.

Giới thiệu

Trái phiếu xanh (TPX) được xem là công cụ tài chính mới nổi hiệu quả của tài chính xanh và kênh hút vốn từ việc đầu tư bền vững. Xuất hiện vào năm 2007 tại châu Âu, TPX đã tạo thành sự bùng nổ TPX trên thị trường tài chính toàn cầu (Flammer, 2020). Tuy nhiên, mãi đến năm 2016 sau Thỏa thuận Paris, thị trường TPX tại ASEAN+3 mới xuất hiện nhưng đã có sự phát triển nhanh chóng chỉ trong thời gian ngắn.

Sự phát triển của thị trường TPX ở mỗi quốc gia trong khu vực chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố. Các thị trường đều gặp những rào cản, thách thức để từ đó tìm ra những động lực, rút ra các bài học kinh nghiệm cho sự phát triển nhanh chóng ngày nay, đặc biệt đối với ba thị trường cốt lõi cho sự phát triển của thị trường khu vực là Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Do đó, việc đề xuất những bài học kinh nghiệm quý báu từ sự thành công của khu vực và đưa ra các khuyến nghị cụ thể cho thị trường TPX Việt Nam là điều cần thiết.

Thực trạng thị trường trái phiếu xanh tại ASEAN + 3

Thị trường TPX của các quốc gia ASEAN+3 còn khá non trẻ, có độ tín nhiệm chưa cao nên đặc trưng của thị trường là ưa chuộng phát hành trái phiếu nội tệ kỳ hạn ngắn có tính linh hoạt cao. Mặc dù xuất hiện muộn, thị trường TPX tại ASEAN+3 tăng trưởng mạnh mẽ trở thành thị trường lớn thứ 2 chiếm 20% tổng lượng TPX toàn cầu chỉ sau Liên minh châu Âu chiếm 49,2% thị trường toàn cầu. Trong đó, ba thị trường lớn Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc chiếm hơn 90% quy mô thị trường TPX ASEAN+3 (ABO, 2023).

Đối với ASEAN, quy mô chỉ chiếm khoảng 10% thị trường TPX ASEAN+3 nhưng có dư địa tăng trưởng rất lớn. Theo ABO (2023), thị trường TPX khu vực ASEAN có sự tăng trưởng nhanh chóng, năm 2016 quy mô thị trường khoảng 4 tỷ USD thì đến năm 2022 đã có 99 tỷ USD TPX được phát hành.

Bên cạnh đó, chỉ số SDG của các quốc gia tăng đều qua các năm, điểm SDG trung bình của khu vực đạt 70.93 điểm vào năm 2023, cho thấy, nhu cầu về tài chính bền vững cũng như nhận thức về đầu tư bền vững ở các quốc gia ASEAN ngày càng gia tăng. Việc xây dựng Tiêu chuẩn TPX ASEAN vào năm 2017 đã tạo khung pháp lý đầu tiên cho thị trường TPX tại ASEAN (ASEAN, 2018). Đồng thời, các quốc gia đã đưa ra các chính sách và chương trình hỗ trợ điều chỉnh giảm các chi phí liên quan đến việc phát hành TPX (CBI, 2016; GGGI, 2021; SCM, 2017). Tuy nhiên, thị trường TPX ASEAN vẫn tồn tại những rào cản như: thiếu các hướng dẫn và tiêu chuẩn cụ thể của từng quốc gia, địa phương; thiếu nguồn cung TPX được dán nhãn; thiếu xếp hạng, chỉ số và niêm yết, do đó, gây khó khăn trong việc tiếp cận thị trường địa phương từ nước ngoài.

Đối với Nhật Bản, thị trường TPX lớn thứ hai trong khu vực, Chính phủ và các tổ chức tài chính có vai trò quan trọng trong việc tiên phong phát triển TPX. Theo CBI (2016), với sự nỗ lực của các tổ chức tài chính, Nhật Bản đã phát triển đa dạng các sản phẩm TPX như TPX liên kết chỉ số, TPX kết hợp với các công cụ phái sinh... giúp thu hút đa dạng các nhà đầu tư, thúc đẩy nhu cầu TPX. Đồng thời, để thúc đẩy sự tăng trưởng quy mô, tăng nguồn cung cho thị trường, ngoài việc xây dựng khung pháp lý rõ ràng Chính phủ đã áp dụng các chính sách ưu đãi thuế, hỗ trợ tài chính cho các dự án xanh cũng như triển khai chương trình cung cấp khoản trợ cấp cho các chi phí liên quan đến đánh giá bên ngoài (CBI, 2016). Nhờ những yếu tố trên đã thúc đẩy quy mô thị trường TPX ở nước này tăng từ 5.9 tỷ USD năm 2016 lên 237.4 tỷ USD vào năm 2023 (ABO, 2023). Đồng thời, chỉ số SDG của Nhật Bản tăng đều qua các năm và đạt 79.87 điểm, hạng 18 trên 166 quốc gia và chỉ số S&P Green Bond giai đoạn 2017-2023 luôn cao hơn chỉ số S&P Green Bond toàn cầu. Tuy nhiên, chi phí phát hành TPX ở quốc gia này còn khá cao gây cản trở cho việc cung cấp nguồn cung trái phiếu.

Đối với Trung Quốc, quốc gia có thị trường TPX lớn nhất khu vực, theo Liu và cộng sự (2022), sự phát triển nhanh chóng của Trung Quốc với quy mô chiếm khoảng từ 60-70% có động lực chính từ việc cải cách môi trường thể chế độc đáo, tập trung nâng cao uy tín thị trường thông qua sự thúc đẩy thị trường nội địa. Với cách tiếp cận định hướng thị trường từ trên xuống, Trung Quốc có khung pháp lý vững chắc với những quy định và hướng dẫn cụ thể giúp thị trường TPX nước này phát triển nhanh chóng. Chỉ số tổng hợp TPX ChinaBond được xếp hạng AAA+ và AAA lớn hơn đáng kể so với Chỉ số trái phiếu tín dụng ChinaBond, điều này giúp nâng cao chất lượng thị trường TPX của Trung Quốc trên thị trường quốc tế (Junxiao, 2023). Tuy nhiên, theo Kapron (2023) rào cản lớn nhất hiện tại của thị trường này là vấn đề greenwashing (Tẩy xanh) ngày càng nghiêm trọng khi có đến hơn 33% các doanh nghiệp đang hưởng lợi từ việc phát hành TPX nhưng không mang lại lợi ích môi trường.

Đối với Hàn Quốc, quốc gia này lựa chọn một mô hình phát triển TPX khác biệt khi nâng cao hơn tiêu chuẩn tăng trưởng xanh thông qua áp dụng tăng trưởng xanh như một tầm nhìn quốc gia gắn liền với hệ thống quản trị của mình, hướng đến nền kinh xanh toàn diện, thay vì chỉ chú trọng vào việc huy động vốn xanh. Theo Kim và cộng sự (2015), Hàn Quốc phát triển 7 mô hình TPX gắn liền với 7 lĩnh vực gồm xã hội cacbon thấp, tái tạo năng lượng, công nghệ xanh, lối sống xanh, công nghiệp xanh, giao thông xanh và đất nước xanh. Trong giai đoạn 2016-2023, tỷ lệ phân bổ nguồn vốn từ TPX chủ yếu tập trung cho 4 lĩnh vực chính gồm 35% cho ngành Năng lượng, 35% cho ngành Xây dựng và 20% cho ngành Giao thông và xử lý nước (ADB, 2024; Boulle, 2018). Bên cạnh đó, Bộ Môi trường Hàn Quốc đã thành lập Quỹ Môi trường Nhà nước để hỗ trợ tài chính cho ngành Công nghiệp môi trường gồm năng lượng mới và năng lượng tái tạo (Oh & Kim, 2018). Do đó, chỉ số SDG Hàn Quốc đạt 77.33 điểm ở hạng 33 toàn cầu nhưng quy mô thị trường TPX nước này vẫn còn khá nhỏ so với sự phát triển của thị trường trái phiếu Hàn Quốc.

Kinh nghiệm của ASEAN +3 và đề xuất cho Việt Nam

Qua những phân tích về quá trình phát triển TPX tại ASEAN+3, nghiên cứu rút ra được những bài học kinh nghiệm như sau:

- Kinh nghiệm từ Nhật Bản: Sự kết hợp các sáng kiến tư nhân và Chính phủ trong việc đa dạng hóa các sản phẩm trên thị trường, đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường thông qua các chương trình hỗ trợ và chính sách ưu đãi thuế.

- Kinh nghiệm từ Hàn Quốc: Mô hình phát triển TPX cụ thể cho từng lĩnh vực giúp tỷ lệ phân bổ vốn từ TPX khá đồng đều trong khi nếu quá tập trung vào một lĩnh vực thường gây ra tình trạng mất cân bằng, thiếu vốn ở một số lĩnh vực khác, đồng thời, thành lập các quỹ xanh để hỗ trợ thị trường.

- Kinh nghiệm từ Trung Quốc: Xây dựng khuôn khổ pháp lý cụ thể cho từng chủ thể tham gia thị trường, các quy định về dự án xanh đủ điều kiện giúp nâng cao uy tín thị trường, đồng thời, tập trung phát triển thị trường nội địa vững mạnh thông qua các chính sách hỗ trợ TPX nội địa, từ đó, tiếp cận thị trường quốc tế vững vàng hơn.

Kinh nghiệm từ ASEAN+3, nghiên cứu đề xuất một số giải pháp giúp thúc đẩy sự phát triển của thị trường TPX Việt Nam như sau:

Thứ nhất, xây dựng hạ tầng pháp lý. Dựa vào Tiêu chuẩn TPX ASEAN cùng những tiêu chí môi trường, Chính phủ nên ban hành những quy định theo định hướng tiếp cận tự nguyện không ràng buộc về mặt pháp lý quá chặt chẽ trong giai đoạn đầu. Tuy nhiên, cần quy định rõ ràng các tỷ lệ phân bổ nguồn vốn thu từ TPX, danh mục phân loại dự án xanh, đây là hướng dẫn quan trọng định hướng thị trường TPX và tránh tình trạng greenwashing. Đồng thời, đưa ra các hướng dẫn cụ thể cho từng chủ thể tham gia thị trường như nhà đầu tư, tổ chức phát hành... Bên cạnh đó, để giảm bớt chi phí phát hành, yêu cầu về xác nhận từ tổ chức bên ngoài có thể không bắt buộc hoặc khuyến khích thực hiện nhưng hỗ trợ chi phí xác nhận này.

Thứ hai, đa dạng hóa sản phẩm tài chính. Việt Nam cần thúc đẩy các sáng kiến về việc đa dạng hóa các sản phẩm tài chính trên thị trường chứng khoán (TTCK) để thu hút các nhà đầu tư. Tuy nhiên, muốn phát triển đa dạng sản phẩm, Việt Nam cần phải phát triển, nâng hạng TTCK, trong đó, thị trường phái sinh phát triển có thể giúp kéo dài kỳ hạn trái phiếu cũng như tăng tính hấp dẫn và thanh khoản của thị trường.

Thứ ba, ban hành các chính sách thúc đẩy thị trường. Để khuyến khích đầu tư TPX trong giai đoạn đầu, Chính phủ nên đưa ra các chương trình hỗ trợ phí phát hành và các phí liên quan đến phí phát hành TPX với một quy mô tối thiểu để tăng trưởng khối lượng phát hành, đồng thời, đưa ra các chính sách ưu đãi thuế cho dự án thuộc phân loại xanh, đồng thời cải cách thủ tục pháp lý trong quá trình phát hành TPX. Đối với các nhà đầu tư, trong thời gian đầu để kích thích nhu cầu cũng như tăng thanh khoản thị trường, chính phủ các thể đưa các ưu đãi liên quan đến thuế thu nhập cá nhân chuyển nhượng hay ưu đãi về phí giao dịch TPX.

Thứ tư, hỗ trợ tài chính và thúc đẩy nhận thức. Tổ chức các khóa đào tạo cho các nhà đầu tư, doanh nghiệp, cơ quan quản lý nhằm tăng cường kiến thức về TPX. Đồng thời, hỗ trợ thành lập các quỹ hỗ trợ kỹ thuật tại các công ty chứng khoán, ngân hàng,… giúp các tổ chức phát hành xây dựng hồ sơ cho các dự án xanh cũng như đáp ứng yêu cầu của các nhà đầu tư. Nâng cao nhận thức cộng đồng về TPX thông các chiến dịch truyền thông về tài chính xanh, đầu tư bền vững.

Thứ năm, tăng cường hợp tác quốc tế về phát triển TPX. Học hỏi kinh nghiệm từ ASEAN +3 qua các chương trình hợp tác quốc tế, hỗ trợ kỹ thuật như Hội nghị Bàn tròn của Đối thoại Tài chính Khí hậu châu Á... Bên cạnh đó, tận dụng sự hỗ trợ bão lãnh trái phiếu nội địa từ Cơ sở đầu tư và bảo lãnh tín dụng khai thác thị trường nội địa đảm bảo nguồn tài chính dài hạn, ổn định và giảm sự phụ thuộc vào việc vay ngoại tệ ngắn hạn nhằm giảm thiểu rủi ro tỷ giá và thời hạn đáo hạn dẫn đến rủi ro tái đầu tư.

Kết luận

Kinh nghiệm phát triển thị trường TPX của ASEAN+3 đã mang lại nhiều bài học quý giá cho Việt Nam. ASEAN+3 đã chứng minh rằng sự phát triển nhanh chóng của thị trường TPX phụ thuộc vào việc xây dựng khung pháp lý vững chắc, phát triển thị trường nội địa, đa dạng hóa sản phẩm tài chính và nâng cao nhận thức cộng đồng. Việc hợp tác quốc tế giúp Việt Nam học hỏi kinh nghiệm khu vực, tăng cường khung pháp lý, đảm bảo minh bạch và công bằng trên thị trường, đa dạng hóa sản phẩm tài chính và nâng cao nhận thức cộng đồng, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho sự tham gia của các chủ thể trong thị trường. Tuy nhiên, Việt Nam cần điều chỉnh kinh nghiệm của ASEAN+3 cho phù hợp với bối cảnh trong nước để đảm bảo hiệu quả và bền vững của các chính sách. Việt Nam cần xây dựng lộ trình phát triển thị trường TPX phù hợp với định hướng phát triển kinh tế và tiến trình SDG. Đồng thời, cần nghiên cứu sâu hơn về khung pháp lý, tác động của các chính sách hiện hành, đa dạng hóa sản phẩm và các thách thức về thông tin minh bạch, chi phí phát hành và khả năng tiếp cận vốn.

Tài liệu tham khảo:

  1. ABO. (2023), ASEAN+3 Sustainable Bonds Highlights 2023. Retrieved from https://asianbondsonline.adb.org/;
  2. ADB. (2024), Asia Bond Monitor 2024. Asian Development Bank. doi:http://dx.doi.org/10.22617/SGP240105-2;
  3. CBI. (2016), Green Bond Policy Data Set. Retrieved from https://www.climatebonds.net/policy/data;
  4. Flammer, C. (2020), Green Bonds: Effectiveness and Implications for Public Policy. National Bureau of Economic Research, 95-128;
  5. Junxiao, W. (2023), Analysis of China Green Bond Index Investment. Retrieved from https://www.theasset.com/article/48482/analysis-of-china-green-bond-index-investment;
  6. Kim, Y. S., Kang, S. J., Ryu, J. C., Kim, W. D., Han, K. J., & Shin, Y. E. (2015), Korea’s Green Growth Experience: Process, Outcomes and Lessons Learned;
  7. Liu, S., Qi, H., & Wan, Y. (2022), Driving factors behind the development of China’s green bond market. Journal of Cleaner Production, 354. doi:10.1016/j.jclepro.2022.131705;
  8. MSCI (Producer). (2023), MSCI global market accessibility review. Retrieved from https://www.msci.com/documents/1296102/d83f6958-4cb1-899e-4991-b0af9da72715;Tu, C. A., Sarker, T., & Rasoulinezhad, E. (2020), Factors Influencing the Green Bond Market Expansion: Evidence from a Multi-Dimensional Analysis. Journal of Risk Financial Management, 126.
Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 12/2024