Thu hút nguồn lực từ bên ngoài: Từ thực tiễn của Bình Dương và Quảng Ninh

ThS. PHẠM THỊ DIỆU PHÚC

(Tài chính) Vốn đầu tư nước ngoài (FDI) có vai trò hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội đối với mỗi địa phương. Đây vừa là nguồn bổ sung vốn cho đầu tư, vừa là một cách để chuyển giao công nghệ, tạo việc làm và thu nhập cho người lao động, tăng thu cho ngân sách và thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế… Bình Dương và Quảng Ninh là hai địa phương tiêu biểu được đánh giá cao về những thành công trong thu hút đầu tư nước ngoài.

Nguồn FDI đã góp phần tăng trưởng kinh tế xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển. Nguồn: internet
Nguồn FDI đã góp phần tăng trưởng kinh tế xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển. Nguồn: internet
Bình Dương: "Trải thảm đỏ, đón nhà đầu tư"

Bình Dương từ một tỉnh thuần nông, công nghiệp chưa phát triển nhưng với tầm nhìn chiến lược đột phá và chủ trương “Trải thảm đỏ, đón nhà đầu tư” đã thu hút nguồn lực trong và ngoài nước rất lớn, trong đó, vốn FDI có ý nghĩa hết sức quan trọng.

Với tư duy đổi mới và tầm nhìn chiến lược, Bình Dương xác định hướng “đi tắt đón đầu”, thực hiện chủ trương “Trải thảm đỏ, đón nhà đầu tư” từ những năm 1990 và phát huy lợi thế là cửa ngõ vào TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận. Chủ trương của Tỉnh: “Trải thảm đỏ, đón nhà đầu tư” đã có kết quả, không chỉ là nguồn vốn mà còn là công nghệ hiện đại giúp cho Bình Dương “đi tắt đón đầu” từ tỉnh nghèo đi lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa khá vững chắc. Hiện nay, đã có 36 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Bình Dương, trong đó có nhiều tập đoàn, công ty đa quốc gia có tiềm lực tài chính và công nghệ cao.

Nguồn FDI đã góp phần tăng trưởng kinh tế xã hội, thúc đẩy kinh tế Bình Dương tăng trưởng nhanh. Năm 2012, Tỉnh có gần 2.100 dự án vốn FDI còn hiệu lực, trên tổng số đăng ký 2.208 dự án, tổng vốn đăng ký còn hiệu lực là 17,12 tỷ USD/17, 488 tỷ USD, vốn điều lệ hơn 5,1 tỷ USD. Trong năm 2013, toàn Tỉnh đã thu hút thêm gần 1,320 tỷ USD, vượt xa so với kế hoạch 1 tỷ USD đã đề ra, gồm 125 dự án mới, với số vốn gần 820 triệu USD và 124 lượt dự án bổ sung tăng vốn hơn 500 triệu USD.

Tính đến hết năm 2013, Bình Dương có 2.209 dự án với tổng số vốn 18,720 tỷ USD. Với sự gia tăng về số lượng các dự án cũng như số tiền đầu tư đã giúp kinh tế Bình Dương chuyển dịch rất mạnh từ nông nghiệp sang công nghiệp và là động lực tăng nguồn thu cho ngân sách, tăng giá trị xuất khẩu, chuyển dịch lao động nông nghiệp sang công nghiệp, giải quyết việc làm cho lao động trong tỉnh và thu hút cả lao động ngoài tỉnh...

Cụ thể, vốn FDI đầu tư vào Bình Dương đạt hiệu quả cao đã góp phần tăng nguồn thu ngân sách: Năm 1997, các doanh nghiệp vốn FDI đóng góp cho ngân sách 817 tỷ đồng thì đến năm 2011 đã đóng góp ngân sách lên 183,2 triệu USD, chiếm 16% ngân sách và chiếm gần 35% GDP của Bình Dương; năm 2012, mặc dù ảnh hưởng suy thoái kinh tế toàn cầu, nhiều doanh nghiệp khó khăn nhưng phần đóng góp cho ngân sách tỉnh từ FDI vẫn đạt trên 200 triệu USD…

Không những đóng góp cho ngân sách, doanh nghiệp FDI đã tăng giá trị xuất khẩu đạt 8 tỷ 309 triệu USD, chiếm 80,35% tổng giá trị xuất khẩu năm 2011, đến năm 2012, giá trị xuất khẩu FDI đạt gần 10 tỷ USD, chiếm gần 83% giá trị xuất khẩu của Tỉnh. Các doanh nghiệp FDI còn mang đến cho Bình Dương công nghệ và kỹ năng maketing từ các công ty nước ngoài, góp phần đưa nhiều sản phẩn Việt Nam ra thị trường thế giới. Thông qua các công ty, tập đoàn đa quốc gia, nhiều sản phẩm sản xuất tại Bình Dương đã tiếp cận với các thị trường quốc tế. Hiện nay, sản phẩm sản xuất tại Bình Dương đã xuất khẩu vào 193 quốc gia và lãnh thổ trên thế giới với nhiều sản phẩm có giá trị xuất khẩu cao như: máy tính và linh kiện điện tử, dây điện và cáp điện...

Kết quả có được trên là do Bình Dương đã cụ thể hóa được các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước một cách linh hoạt, chủ động vào điều kiện cụ thể của địa phương. Ngay từ Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ VI (năm 1997), Bình Dương đã đưa ra chủ trương “Tạo môi trường, điều kiện thuận lợi, phát huy mạnh hơn nữa các lợi thế địa lý, nguồn lực, tiềm năng trong dân, các doanh nghiệp trong Tỉnh, thu hút mạnh các nguồn lực ngoài tỉnh và nước ngoài, tạo động lực phát triển; hình thành kinh tế mở, mở rộng các quan hệ với bên ngoài; phát huy tối đa các nguồn lực nước ngoài đầu tư phát triển công nghiệp”. Theo đó, Bình Dương đã đẩy mạnh xây dựng các khu công nghiệp mới; đảm bảo các điều kiện kết cấu hạ tầng trong và ngoài khu công nghiệp gắn với hình thành các khu đô thị mới, khu nhà ở công nhân để thu hút đầu tư…

Sự phát triển mạnh các khu công nghiệp, cộng với chính sách hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng, chính sách thông thoáng trong vấn đề kêu gọi, thẩm định, cấp phép đầu tư của Tỉnh khiến các dự án FDI ngày càng chảy mạnh vào Bình Dương. Bên cạnh đó, Bình Dương còn chú trọng đến việc đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu và quan hệ kinh tế đối ngoại, xúc tiến thương mại, phát triển các loại hình dịch vụ khác như: thị trường tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, tư vấn, bưu chính viễn thông, vận tải…

Để tạo thuận lợi cho nhà đầu tư cũng như phục vụ nhu cầu của nhân dân, tạo sự thông thoáng trong dịch vụ công, Bình Dương còn đưa ra chủ trương “chuyển các hoạt động sự nghiệp sang cơ chế cung ứng dịch vụ phù hợp với cơ chế thị trường”. Theo đó, Tỉnh đã thực hiện cơ chế một cửa, phân cấp rõ ràng việc cấp phép các dự án đầu tư, làm giảm đi sự phiền hà trong việc cung ứng dịch vụ công vốn là yếu tố gây không ít khó khăn, phiền hà cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Không những thế, nó còn tạo sự thông thoáng trong thủ tục hành chính, giảm bớt thời gian đi lại của các nhà đầu tư, doanh nghiệp. Điều này giúp gia tăng sự hài lòng của nhà đầu tư vào môi trường kinh doanh của Bình Dương và là động lực quan trọng giúp Tỉnh luôn nằm trong top đầu Bảng xếp hạng chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) và là một trong những Tỉnh luôn dẫn đầu về thu hút đầu tư nước ngoài trong những năm qua.

Trong năm 2014 và các năm tiếp theo, Bình Dương xác định tiếp tục phát huy tối đa các lợi thế, thành quả đã đạt được, đồng thời ưu tiên thu hút đầu tư vào các ngành công nghiệp có công nghệ cao, công nghệ sạch như: cơ khí, chế tạo máy, điện tử, công nghệ thông tin… nhằm nâng cao giá trị và khả năng cạnh tranh của sản phẩm.

Thu hút đầu tư có lựa chọn theo hướng ưu tiên các dự án có vốn đầu tư lớn từ các nước có nền công nghệ phát triển, sản xuất những sản phẩm có tính cạnh tranh cao, có tầm xuyên quốc gia và quốc tế, tăng tỷ trọng vào các ngành dịch vụ hỗ trợ sản xuất để phát triển nhanh các sản phẩm mũi nhọn, chủ lực; Tiếp tục hoàn thiện mô hình “một dấu, một cửa” theo hướng nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước, xây dựng đội ngũ công chức có năng lực, phẩm chất. Qua đó, đảm bảo thực hiện nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh…

Quảng Ninh: Phát huy lợi thế "Việt Nam thu nhỏ"

Được ví như “Việt Nam thu nhỏ”, Quảng Ninh là tỉnh hội tụ nhiều yếu tố thuận lợi thu hút các nguồn lực đầu tư nước ngoài phát triển kinh tế địa phương. Cũng như nhiều tỉnh, thành trên cả nước, Quảng Ninh thực hiện “trải thảm đỏ” bằng môi trường đầu tư thuận lợi, để trở thành nơi “đất lành chim đậu”.

Từ lợi thế là tỉnh hội tủ đầy đủ các yếu tố để phát triển cảng biển, biên giới, du lịch, khai khoáng… Quảng Ninh thống nhất nhận thức thu hút nguồn lực đầu tư trong và ngoài nước là nhiệm vụ, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của các cấp, các ngành, các địa phương trong tỉnh.

Với quan điểm tích cực, chủ động và không ngừng cải thiện môi trường đầu tư, đặc biệt là thu hút các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài. Đổi mới căn bản phương pháp xúc tiến đầu tư theo hướng trực tiếp làm việc với từng nhà đầu tư để giới thiệu các dự án cụ thể, phù hợp với định hướng phát triển của tỉnh và lợi ích của các nhà đầu tư; bảo đảm tính thiết thực và hiệu quả trong công tác xúc tiến đầu tư; đồng thời tích cực đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư tại chỗ.

Để có môi trường đầu tư tốt, phải có sự đầu tư thích đáng ban đầu về hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, có chính sách hợp lý, minh bạch… tạo ra sự hấp dẫn và tập trung thu hút các dự án quan trọng vào địa bàn trọng điểm có tính động lực và lan tỏa, Quảng Ninh tranh thủ mọi kênh thông tin để tìm kiếm và tiếp cận nhà đầu tư có tiềm năng, chiến lược.

Tỉnh thường xuyên rà soát cơ chế, chính sách trong khuyến khích, thu hút đầu tư để điều chỉnh kịp thời, phù hợp, đủ sức hấp dẫn và cạnh tranh. Đối với các dự án động lực, có tính lan tỏa trong nền kinh tế, Tỉnh có những chính sách riêng, đặc thù có tính đột phá để khuyến khích đầu tư. Không chỉ vậy, Tỉnh luôn xác định nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư đi đôi với cải thiện môi trường đầu tư.

Với định hướng và những quyết sách đúng đắn, kịp thời trong tăng cường quan hệ quốc tế hướng tới hội nhập, đã tác động tới thu hút đầu tư FDI của Quảng Ninh. Theo thống kê của Sở Kế hoạch và Đầu tư Quảng Ninh, hiện Tỉnh có tổng số 94 dự án FDI còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 4,539 tỷ USD. Riêng trong giai đoạn gần đây đã tăng thêm 21 dự án, số vốn FDI đã đạt con số 4,2 tỷ USD. Trong đó, dự án Nhiệt điện Mông Dương II của Hoa Kỳ với tổng vốn 2,147 tỷ USD đã đưa Quảng Ninh vào tốp những địa bàn thu hút FDI lớn nhất cả nước trong năm 2010.

Bên cạnh đó, toàn Tỉnh đã có 5 dự án chủ đầu tư là của Việt kiều với số vốn đầu tư đăng ký khoảng trên 30 triệu USD. Các nguồn vốn ODA, tổ chức phi chính phủ (NGO) trong giai đoạn này cũng có sự tăng mạnh so với giai đoạn trước (vốn ODA tăng gấp 1,2 lần, viện trợ của các NGO tăng gấp 2,12 lần so với 20 năm trước đây), từ nhà đầu tư, tài trợ nước ngoài: Hoa Kỳ, Úc, Pháp, Đức, Nhật, Anh, Thụy Điển, Na Uy, Canada, Liên hợp quốc... tài trợ cho các lĩnh vực môi trường, y tế, giáo dục, giao thông, nông nghiệp.

Cùng với Hà Nội và Hải Phòng, Quảng Ninh là một trong ba cực của tam giác tăng trưởng vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc. Chính vì vậy, Quảng Ninh luôn có định hướng và áp dụng nhiều chính sách ưu đãi để thu hút đầu tư, phát triển doanh nghiệp. Đặc biệt là quy hoạch thu hút đầu tư theo ngành, lĩnh vực, đối tác phù hợp với lợi thế của địa phương để phát huy hiệu quả đầu tư, trọng tâm là hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông.

Một trong những điểm nhấn của thu hút đầu tư ở Quảng Ninh chính là việc tập trung xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông (đường bộ, đường sắt, cảng biển, cảng hàng không hiện đại); hạ tầng đô thị, năng lượng; ứng dụng khoa học - kỹ thuật, sản xuất năng lượng sạch; hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông; hạ tầng khu kinh tế, khu công nghiệp (KKT, KCN)… Đồng thời, đẩy mạnh thu hút đầu tư vào các dự án hạ tầng về y tế, giáo dục, môi trường, dịch vụ, du lịch.

Quảng Ninh đặt mục tiêu phấn đấu thu hút vốn đầu tư ngoài ngân sách hằng năm (bao gồm cả vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài) đạt khoảng từ 2 - 2,5 tỷ USD. Đến năm 2020, nguồn vốn đầu tư nước ngoài chiếm 40% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, đóng góp khoảng 50% GDP, 60% tổng kim ngạch xuất khẩu và khoảng 20% tổng thu ngân sách của Tỉnh.

Tiếp tục phát huy những thành quả quan trọng trên, hiện Quảng Ninh đang tập trung thực hiện tốt các giải pháp vừa cấp bách, vừa lâu dài sau:

Một là, hoàn thiện quy hoạch kinh tế - xã hội, quy hoạch ngành, vùng một cách rõ ràng, bài bản và phù hợp với tình hình thực tiễn và xu thế phát triển trong tương lai. Đặc biệt phải dành quỹ đất hợp lý để kêu gọi các dự án quan trọng, các dự án thuộc diện khuyến khích và đặc biệt khuyến khích đầu tư.

Hai là, giải phóng mặt bằng, hoàn chỉnh nghiên cứu khả thi các dự án. Hàng năm, Quảng Ninh luôn dành nguồn ngân sách thích đáng để thực hiện giải phóng mặt bằng các dự án, các KCN và đầu tư hạ tầng kỹ thuật khu tái định cư. Đồng thời, cam kết thực hiện đúng tiến độ, thời gian giải phóng mặt bằng, bàn giao mặt bằng sạch cho nhà đầu tư. Xây dựng cơ chế chính sách riêng cho các KCN chuyên sâu để dần hình thành ngành công nghiệp phụ trợ.

Ba là, đào tạo nguồn nhân lực theo hướng ưu tiên các nguồn lực, đặc biệt tranh thủ nguồn kinh phí hỗ trợ để tăng cường và củng cố các cơ sở đào tạo lao động, các trung tâm dạy nghề của tỉnh. Triển khai đầu tư phát triển dự án nguồn nhân lực với hình thức “3 nhà” (doanh nghiệp - Nhà nước - nhà trường).

Bốn là, xây dựng chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư. Làm tốt công tác hỗ trợ đầu tư, xây dựng các chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư để tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư triển khai dự án đầu tư, sản xuất - kinh doanh trên địa bàn tỉnh, giúp giảm chi phí đầu tư, nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh, tăng tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.

Năm là, xây dựng mối quan hệ đối tác chiến lược với các tổ chức, hiệp hội, công ty tư vấn thương mại, đầu tư nước ngoài. Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách cụ thể, phù hợp và minh bạch, khuyến khích các tổ chức, cá nhân mời gọi nhà đầu tư tiềm năng đầu tư vào Quảng Ninh là một biện pháp thúc đẩy nhanh, mạnh công tác xúc tiến đầu tư có hiệu quả.
__________________

Tài liệu tham khảo:

1. Kỷ yếu Hội thảo: Chủ trương, chính sách mới thu hút mạnh mẽ các nguồn lực bên ngoài – Ban Kinh tế Trung ương;

2. Nghị quyết về các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2014 của HĐND tỉnh Quảng Ninh;

3. UBND tỉnh Bình Dương: Báo cáo tình hình kinh tế-xã hội năm 2013 và nhiệm vụ năm 2014.

Bài đăng trên Tạp chí Tài chính số 5 - 2014