Thuế quan mà ông Trump áp đặt lên Trung Quốc là gì, và chúng hoạt động ra sao?
Tổng thống Donald Trump đã gia tăng căng thẳng với Trung Quốc bằng cách tăng vọt thuế quan đối với lượng hàng hóa trị giá 200 tỷ USD đến từ Trung Quốc từ mức 10% lên mức 25%, theo AP.
Là một công cụ của chính sách quốc gia, thuế quan từ lâu đã đi vào lịch sử như một di tích của thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Hầu hết các chuyên gia đều coi thuế quan là có hại cho tất cả các quốc gia liên quan. Tuy nhiên, hơn bất kỳ tổng thống hiện đại nào khác, ông Trump đã áp dụng thuế quan như một công cụ trừng phạt để chống lại châu Âu, Canada và các đối tác thương mại quan trọng khác, nhưng đặc biệt là chống lại Trung Quốc, nền kinh tế lớn thứ hai thế giới sau Hoa Kỳ.
Chính quyền của ông Trump khẳng định, và nhiều nhà phân tích độc lập đồng ý rằng Bắc Kinh đã triển khai các chiến thuật săn mồi nhằm cố gắng mang lại cho các công ty Trung Quốc một lợi thế trong các công nghệ tiên tiến như trí tuệ nhân tạo, robot và xe điện. Hoa Kỳ cho rằng, chiến thuật của Bắc Kinh bao gồm cả việc tấn công tin tặc (hack) vào các hệ thống máy tính của các công ty Hoa Kỳ để đánh cắp bí mật thương mại, buộc các công ty nước ngoài phải chuyển giao công nghệ nhạy cảm để đổi lấy quyền tiếp cận thị trường Trung Quốc và trợ cấp không công bằng cho các công ty xuất khẩu Trung Quốc.
Ông Trump cũng đã không ít lần phàn nàn một cách giận dữ về sự thâm hụt thương mại của Mỹ với Trung Quốc, mà việc này theo ông chủ yếu do việc đàm phán yếu kém và ngây thơ của các chính quyền Hoa Kỳ trước đây.
Tháng 7 năm ngoái, ông Trump bắt đầu dần dần áp thuế đối với hàng nhập khẩu của Trung Quốc. Sau mức tăng thuế quan hôm thứ Sáu vừa rồi, Chính quyền Hoa Kỳ hiện đang áp thuế 25% đối với 250 tỷ USD hàng hóa đến từ Trung Quốc. Bắc Kinh đã phản công bằng cách đánh thuế 110 tỷ USD các sản phẩm của Mỹ, tập trung vào hàng nông sản, đặc biệt là đậu nành, trong một nỗ lực có tính toán để gây đau đớn cho những người ủng hộ Trump trong khu vực trang trại của Mỹ.
Dưới đây là phân tich của hãng thông tấn Mỹ AP về thuế quan và cách thức chúng được áp dụng:
Thuế quan chính xác là gì?
Thuế quan là một loại thuế đối với hàng nhập khẩu. Chúng thường được tính theo tỷ lệ phần trăm trên giá giao dịch mà người mua trả cho người bán nước ngoài. Hãy xem một ví dụ đơn giản sau (không tính đến số tiền tối thiểu phải chịu thuế trong thế giới thực): Giả sử một nhà bán lẻ Mỹ mua 100 chiếc ô dùng trong vườn từ Trung Quốc với giá 5 USD - tổng cộng số tiền là 500 USD. Và giả sử mức thuế suất của Hoa Kỳ đối với mặt hàng ô là 6,5%. Nhà bán lẻ sẽ phải trả mức thuế 32,50 USD cho tổng lô hàng, do đó nâng tổng giá trị của lô hàng từ 500 USD lên 535,50 USD.
Tại Hoa Kỳ, thuế quan (tariffs) - đôi khi còn được gọi là thuế nhập khẩu (duties) hoặc thuế (levies) - được thu bởi các đại lý của Cơ quan Hải quan và Biên phòng tại 328 cảng nhập cảnh trên toàn quốc. Tiền thu được đưa vào Kho bạc. Thuế suất được Ủy ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ công bố trong Biểu thuế quan hài hòa, liệt kê thuế quan của Hoa Kỳ đối với tất cả mọi thứ từ chuối khô (1,4%) đến dù (3%).
Đôi khi, Hoa Kỳ sẽ áp dụng thuế quan bổ sung đối với hàng nhập khẩu mà họ xác định đang được bán với giá thấp không công bằng hoặc đang được hỗ trợ (trợ giá) bởi chính phủ nước ngoài.
Mục đích của việc đánh thuế (quan) là gì?
Hai mục đích cụ thể: Tăng nguồn thu cho chính phủ và bảo vệ các ngành công nghiệp trong nước khỏi sự cạnh tranh của nước ngoài. Trước khi ngành thuế thu nhập liên bang được thành lập vào năm 1913, thuế quan là một công cụ kiếm tiền khá lớn đối với Washington. Từ năm 1790 đến năm 1860, thuế quan đã tạo ra 90% doanh thu của liên bang, theo Douglas Irwin, một nhà kinh tế tại Đại học Dartmouth. Ngược lại, thuế quan trong những năm gần đây chỉ chiếm khoảng 1% doanh thu của liên bang.
Thuế quan có nghĩa là tăng giá nhập khẩu hoặc trừng phạt nước ngoài vì các hành vi thương mại không công bằng, như trợ cấp cho các nhà xuất khẩu của họ và bán hàng hóa của họ với giá thấp không công bằng. Họ không khuyến khích nhập khẩu bằng cách làm cho chúng đắt hơn. Họ cũng giảm áp lực từ cạnh tranh nước ngoài và giúp các công ty gia đình dễ dàng tăng giá hơn.
Khi thương mại toàn cầu phát triển sau Thế chiến II, thuế quan không còn được ưa chuộng. Sự hình thành của Tổ chức Thương mại Thế giới và sự xuất hiện của các thỏa thuận thương mại như Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ đã khiến thuế quan bị giảm hoặc loại bỏ thuế quan. Mức thuế trung bình của Hoa Kỳ hiện là một trong những mức thấp nhất trên thế giới: 1,6 phần trăm, giống như Liên minh Châu Âu, theo báo cáo của Trung tâm nghiên cứu Pew.
Thuế quan có phải là một chính sách khôn ngoan?
Thuế quan tăng cao khiến chi phí gia tăng đối với người tiêu dùng và các công ty phụ thuộc vào hàng hóa nhập khẩu nhập khẩu. Chẳng hạn, một số công ty Hoa Kỳ mua thép phàn nàn rằng mức thuế của ông Trump đối với thép nhập khẩu khiến họ gặp bất lợi trong cạnh tranh. Các đối thủ nước ngoài của họ có thể mua thép với giá rẻ hơn và do đó cung cấp hàng hóa với giá thấp hơn.
Năm 2002, Chính quyền của Tổng thống George W. Bush, đã áp dụng thuế quan đối với thép nhập khẩu. Một nghiên cứu được tài trợ bởi các doanh nghiệp tiêu thụ thép cho thấy mức thuế này đã khiến 200.000 người Mỹ bị mất việc làm trong năm đó (vì sản xuất đình đốn do chi phí nhập khẩu nguyên liệu gia tăng).
Rộng hơn, việc hạn chế thương mại làm cho một nền kinh tế kém hiệu quả. Do ít cạnh tranh hơn đến từ nước ngoài, các công ty trong nước đánh mất đi động lực để gia tăng hiệu quả hoặc tập trung vào những gì họ làm tốt nhất.