Trao đổi về phát triển kinh tế bền vững trong hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng đã giúp Việt Nam khai thác và mở rộng thị trường ra nước ngoài. Việt Nam đã chủ động tham gia vào các tổ chức kinh tế lớn như: Hiện hội các quốc gia Đông Nam Á, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương, Diễn đàn hợp tác Á - Âu, Quỹ Tiền tệ Quốc tế...
Bài viết phân tích khái quát những tác động tích cực, tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế với nền kinh tế Việt Nam và đưa ra một số giải pháp để nền kinh tế nước ta tiếp tục tăng trưởng, phát triển bền vững trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Những tác động tích cực của hội nhập kinh tế
Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng với nền kinh tế quốc tế, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của đất nước. Nếu như tăng trưởng GDP bình quân thời kỳ 1986-1990 chỉ đạt 4,4%/năm thì bình quân thời kỳ 1991-2011 đạt 7,34%/năm. Đặc biệt, sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng cao, trong năm 2007, tốc độ tăng trưởng GDP đạt 8,48% (là mức cao nhất trong vòng 11 năm trước đó).
Do ảnh hưởng từ những biến động của nền kinh tế thế giới, khủng hoảng tài chính toàn cầu và khủng hoảng nợ công, nên tốc độ tăng trưởng GDP trong giai đoạn 2011-2015 tuy có chậm lại nhưng vẫn đạt 5,9%/năm, là mức cao của khu vực và thế giới. Năm 2017, tăng trưởng đạt 6,81%, vượt mục tiêu tăng trưởng 6,7%.
Mức tăng trưởng này cũng cao hơn nhiều so với trung bình 5,3% của các nước ASEAN và tương đương với tăng trưởng của Trung Quốc.Bên cạnh đó, quy mô nền kinh tế của Việt Nam tăng nhanh. Sau 16 năm đổi mới, năm 2003, GDP bình quân đầu người của Việt Nam mới đạt 471 USD/người/năm, thì đến năm 2010, mức thu nhập bình quân đầu người đạt 1.168 USD/người/năm, đến năm 2013 đã tăng lên thành 1.960 USD/người/năm.
Năm 2015, quy mô nền kinh tế đạt khoảng 204 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người đạt gần 2.300 USD/người/năm. Năm 2017, quy mô nền kinh tế đạt khoảng 216 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người khoảng 2.306 USD/người/năm, nhờ đó, cuộc sống của các tầng lớn nhân dân được cải thiện.
Chất lượng tăng trưởng kinh tế được cải thiện, trình độ công nghệ sản xuất được nâng lên. Đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng (nếu ở giai đoạn 2001-2005 đạt 21,4%, giai đoạn 2006-2010 đạt 17,2%, thì trong giai đoạn 2011-2015 đạt 28,94%). Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát.
Từ một quốc gia bị bao vây, cấm vận về kinh tế dẫn đến việc hàng hóa sản xuất không đủ phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước. Đến nay, hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng đã giúp Việt Nam khai thác và mở rộng thị trường ra nước ngoài. Việt Nam đã chủ động tham gia vào các tổ chức kinh tế lớn như: Hiện hội các quốc gia Đông Nam Á, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương, Diễn đàn hợp tác Á - Âu, Quỹ Tiền tệ Quốc tế...
Việc gia nhập WTO vào năm 2007 đã mở ra quan hệ thương mại bình đẳng giữa Việt Nam với 150 quốc gia và vùng lãnh thổ. Việt Nam đã tham gia vào ba chuỗi giá trị có vai trò ngày càng quan trọng đối với nền kinh tế toàn cầu, đó là: Chuỗi giá trị lương thực và an ninh lương thực; Chuỗi giá trị năng lượng và an ninh năng lượng; Chuỗi giá trị hàng dệt may và da giầy.
Một số sản phẩm của Việt Nam đã xác lập và khẳng định được thương hiệu, năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Các thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam vẫn là Mỹ, Liên minh châu Âu (EU), Trung Quốc, ASEAN, Nhật Bản, Hàn Quốc. Điều này phản ánh rõ nét xu hướng dịch chuyển vị trí của chuỗi giá trị toàn cầu sang Việt Nam.
Hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư nước ngoài góp phần tăng nguồn vốn đầu tư phát triển và giải quyết các vấn đề xã hội. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đóng góp của khu vực vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào GDP tăng lên nhanh chóng, từ 2% vào năm 1992 đã lên tới gần 20% vào năm 2017. Trong năm 2017, vốn FDI cấp mới và đăng ký thêm đạt khoảng 29,7 tỷ USD, tăng 44,2% so với năm 2016; trong đó, FDI thực hiện đạt khoảng 17,5 tỷ USD, tăng 10,8% so với năm 2016, mức cao kỷ lục từ trước đến nay.
Lĩnh vực đầu tư nước ngoài đã tạo ra lượng lớn công ăn việc làm cho người lao động Việt Nam, qua đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển, góp phần ổn định tình hình xã hội. Khu vực FDI tạo ra khoảng 3,7 triệu việc làm trực tiếp và gần 5 triệu việc làm gián tiếp, trong đó, có nhiều lao động đã được đào tạo và tiếp cận với trình độ công nghệ và quản lý tiên tiến của thế giới. Do vậy, chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao, đây được coi là một nhân tố cơ bản cho hội nhập và phát triển kinh tế.
Một số tồn tại, hạn chế đặt ra
Bên cạnh những kết quả đạt được, những tồn tại và hạn chế của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay gồm:
Hội nhập kinh tế quốc tế chưa gắn kết chặt chẽ với yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế; Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa hội nhập kinh tế quốc tế và tiến trình đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế trong nước dẫn đến lãng phí nguồn lực từ bên ngoài, lao động, chất xám, làm giảm lòng tin, uy tín với đối tác, các nhà tài trợ quốc tế.
Bên cạnh đó, sự bất bình đẳng trong xã hội ngày càng tăng lên. Tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong đã giúp giảm tỷ lệ nghèo trên cả nước, nhưng bất bình đẳng xã hội đang ngày càng tăng lên. Khoảng cách thu nhập giữa nhóm 20% những người giàu nhất với nhóm 20% những người nghèo nhất ngày càng tăng. Theo Tổng cục Thống kê năm 2010, khoảng cách này là 9,2 lần, năm 2012 tăng lên là 9,4 lần và năm 2014 là 9,7 lần.
Chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập. Năng suất lao động (thể hiện chất lượng lao động) của Việt Nam ở mức thấp. Bảng 2 cho thấy, GDP/1 lao động năm 2017 của Việt Nam chỉ bằng 9,41% so với Mỹ; thấp hơn 1,75 lần so với Philippines; 2,3 lần so với Indonesia; 2,75 lần so với Thái Lan; 5,6 lần so với Malaysia và 11,7 lần so với Singapore.
Trong giai đoạn 5 năm (2013-2017), trong khi tốc độ tăng năng suất lao động của Trung Quốc là khoảng 6,81%, của Philippines là gần 4%, của Indonesia và của Thái Lan khoảng 3,5% thì tốc độ tăng của Việt Nam chỉ ở mức khiêm tốn 4,90%.
Bảng 2: Tốc độ tăng GDP bình quân trên 1 lao động |
|||||||||
Tốc độ tăng GDP bình quân hàng năm |
GDP trên 1 lao động, % so với Mỹ năm 2017 |
||||||||
|
1999-2006 |
2007-2012 |
2013-2017 |
2013 |
2014 |
2015 |
2016 |
2017 |
|
Trung Quốc |
8,91 |
9,80 |
6,81 |
7,42 |
6,92 |
6,63 |
6,49 |
6,58 |
24,07% |
Indonesia |
3,26 |
3,58 |
3,42 |
3,73 |
3,30 |
4,70 |
1,83 |
3,53 |
21,67% |
Malaysia |
3,15 |
0,99 |
2,98 |
0,83 |
3,48 |
3,41 |
3,59 |
3,58 |
52,89% |
Philippines |
1,87 |
2,54 |
3,99 |
5,61 |
4,68 |
3,22 |
2,48 |
3,93 |
16,54% |
Singapore |
3,89 |
0,62 |
0,45 |
0,86 |
-0,19 |
-0,21 |
0,97 |
0,80 |
110,65% |
Thái Lan |
3,80 |
2,28 |
3,47 |
3,21 |
3,51 |
3,11 |
4,12 |
3,41 |
25,94% |
Việt Nam |
4,64 |
3,31 |
4,90 |
3,85 |
4,91 |
6,49 |
5,29 |
3,95 |
9,41% |
Theo báo cáo của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo ở Việt Nam chiếm khoảng 79% trong tổng số lao động cơ cấu lao động đào tạo không phù hợp (khoảng 54,4 triệu người). Đội ngũ nhân lực chất lượng cao, công nhân lành nghề còn rất thiếu, lực lượng cán bộ khoa học đầu đàn, đội ngũ doanh nhân giỏi còn thiếu so với nhu cầu xã hội để phát triển các ngành kinh tế chủ lực của Việt Nam.
Trình độ công nghệ thấp và lạc hậu, chính sách đầu tư tạo công nghệ cao còn nhiều bất cập gây cản trở cho hội nhập và phát triển kinh tế. Tỷ lệ doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại Việt Nam chỉ đạt 2% trong khi tỷ lệ này ở Thái Lan là 30%, Malaysia 51%, Singapore 73%. Đây là một vấn đề làm hạn chế đóng góp của khoa học công nghệ vào tăng trưởng kinh tế mà trong thời gian tới cần tập trung giải quyết.
Trong thời gian qua, nước ta đã liên tục xảy ra nhiều sự cố môi trường lớn gây hậu quả nghiêm trọng. Đây chính là hậu quả của việc phát triển "nóng", tập trung cho mục tiêu tăng trưởng mà quên đi các mục tiêu về phát triển bền vững.
Những giải pháp phát triển kinh tế bền vững trong bối cảnh mới
Phát triển bền vững là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa 3 mặt của sự phát triển, trong đó, phát triển kinh tế bền vững trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập Việt Nam cần phải đồng thời phát triển xã hội và bảo vệ môi trường, cụ thể:
Một là, hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với luật pháp quốc tế. Cần coi đây là một yêu cầu, giải pháp có tính đột phá để khắc phục những hạn chế, khai thác những cơ hội mới trong hội nhập kinh tế quốc tế. Mọi cam kết hội nhập quốc tế đều đòi hỏi phải đổi mới về thể chế như một điều kiện tiên quyết để có được thành công.
Hai là, tái cơ cấu nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng cần được thực hiện với vai trò là chìa khóa để thực hiện các khát vọng Việt Nam. Trong đó, cần tăng cường đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sản xuất hàng hóa có giá trị gia tăng lớn và ứng phó được với biến đổi khí hậu; Tăng cường chính sách hỗ trợ DN tư nhân, nâng cao chất lượng cổ phần hóa DNNN, thu hút có lựa chọn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng phát triển ngành công nghiệp thế hệ thứ hai, ngành chế biến chế tạo; Tập trung đầu tư vào các yếu tố nguồn lực chất lượng cao; Đảm bảo hiệu ứng tích cực của tăng trưởng đến các khía cạnh xã hội bằng việc thực hiện các chính sách tăng trưởng hài hòa phải được xem là giải pháp tối ưu.
Ba là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cần thực hiện đồng bộ cơ chế, chính sách phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập. Theo đó, Chương trình và phương thức đào tạo tại các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề cần được đổi mới theo hướng gắn với yêu cầu hoạt động sản xuất, cung cấp cho người học kiến thức chuyên môn, kỹ năng hành nghề và ý thức trách nhiệm; Đẩy mạnh đào tạo nghề và gắn kết đào tạo với DN để nâng cao khả năng thực hành của người học; Phát triển nhanh nguồn nhân lực có chất lượng cao; Gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ.
Bốn là, phát triển khoa học và công nghệ, quan điểm khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực phát triển đất nước. Để đáp ứng được yêu cầu trên, trong thời gian tới, khoa học và công nghệ ở Việt Nam cần có vai trò “bà đỡ” của Nhà nước thông qua việc tạo môi trường pháp lý và hỗ trợ những điều kiện cần thiết cho sự phát triển khoa học - công nghệ như:
Thi hành Luật Sở hữu trí tuệ và Luật Chuyển giao công nghệ theo đúng thông lệ quốc tế; Phát huy những năng lực nội sinh và tranh thủ tiếp thu những thành tựu của thế giới; Ưu tiên đầu tư vào những ngành công nghệ mũi nhọn như công nghệ thông tin, công nghệ số hóa, công nghệ năng lượng, công nghệ sinh học; Cần có chính sách thông thoáng để thu hút các tập đoàn công nghệ xuyên quốc gia, siêu quốc gia có tiềm lực khoa học - công nghệ mạnh đầu tư vào Việt Nam; Phát triển các khu công nghiệp - công nghệ cao, khuyến khích thành lập “vườn ươm công nghệ”; Khuyến khích sự tham gia của kiều bào và chuyên gia nước ngoài trong hoạt động chuyển giao công nghệ.
Năm là, phát triển kinh tế bền vững phải gắn với bảo vệ môi trường. Theo đó, khai thác sử dụng hợp lý hiệu quả tài nguyên thiên nhiên. Quan điểm này phải được quán triệt sâu sắc và phải được thể hiện trong mọi quy hoạch, kế hoạch, dù ở quy mô hay loại hình nào. Đồng thời, bảo vệ môi trường cần được tạo thành một nét văn hóa bên cạnh văn hóa công sở, văn hóa thôn xóm, văn hóa DN và phải gắn với trách nhiệm của mọi tổ chức, cá nhân.
Tài liệu tham khảo:
- Trần Thọ Đạt, Ngô Thắng Lợi (đồng chủ biên): Kinh tế Việt Nam 2016 - Tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và vai trò của nhà nước kiến tạo, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, 2017;
- Trần Thọ Đạt, Tô Trung Thành (đồng chủ biên): Đánh giá kinh tế Việt Nam thường niên 2017 - Tháo gỡ rào cản đối với sự phát triển của doanh nghiệp. NXB Đại học Kinh tế quốc dân, 2018;
- Vũ Văn Phúc, Phạm Minh Chính (đồng chủ biên): Hội nhập kinh tế quốc tế 30 năm nhìn lại, NXB Sự thật, 2015;
- Mai Lan Hương: Vai trò của Nhà nước đối với hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, NXB Sự thật, 2012.