Triển vọng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được những kết quả tương đối tích cực về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đồng thời, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã trở nên gắn kết “hữu cơ” hơn đối với nền kinh tế. Do vậy, Việt Nam bước vào năm 2024 với khá nhiều kỳ vọng về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đồng thời, gia tăng tác động lan tỏa từ khu vực này đối với các khu vực khác của nền kinh tế, nhờ đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo đà cho Đất nước hướng tới hoàn thành Kế hoạch Phát triển kinh tế - xã hội 2021-2025. Bài viết này đánh giá tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2024 và triển vọng năm 2025, từ đó, đưa ra một số kiến nghị chính sách nhằm cải thiện hiệu quả thu hút dòng vốn này trong thời gian tới.
Tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong năm 2024
Trong năm 2024, nhìn chung, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã đạt được những kết quả tích cực (Hình 1). Tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam tính đến ngày 31/12/2024 bao gồm: Vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 38,23 tỷ USD, giảm 3,0% so với cùng kỳ năm trước.
Hình 1: FDI vào Việt Nam giai đoạn 2010 -2024
Trong đó, vốn đăng ký cấp mới có 3.375 dự án được cấp phép với số vốn đăng ký đạt 19,73 tỷ USD, tăng 1,8% so với cùng kỳ năm trước về số dự án và giảm 7,6% về số vốn đăng ký; Vốn đăng ký điều chỉnh có 1.539 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư tăng thêm 13,96 tỷ USD, tăng 50,4% so với cùng kỳ năm trước; Vốn đăng ký góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài có 3.502 lượt với tổng giá trị góp vốn 4,54 tỷ USD, giảm 48,1% so với cùng kỳ năm trước.
Hình 2: FDI đăng ký vào Việt Nam giai đoạn 2020 -2024 (Tỷ USD)
Nếu tính cả vốn đăng ký mới và vốn đăng ký điều chỉnh của các dự án đã cấp phép từ các năm trước thì vốn FDI đăng ký vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 24,68 tỷ USD, chiếm 73,3% tổng vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm; hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 5,09 tỷ USD, chiếm 15,1%; các ngành còn lại đạt 3,91 tỷ USD, chiếm 11,6%.
Hình 3: FDI thực hiện các năm 2020-2024 (Tỷ USD)
Vốn FDI tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Dù tổng vốn đăng ký cấp mới giảm nhẹ 3%, sự gia tăng đáng kể ở vốn điều chỉnh (50,4%) và số lượng dự án mới (1,8%) cho thấy niềm tin mạnh mẽ của nhà đầu tư nước ngoài. Những dự án lớn trong lĩnh vực bán dẫn, năng lượng và công nghệ cao đã được triển khai, góp phần thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu kinh tế.
Về đối tác đầu tư, năm 2024 có 114 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Các đối tác truyền thống như Singapore và Hàn Quốc tiếp tục mở rộng đầu tư. Singapore dẫn đầu với tổng vốn đầu tư gần 10,21 tỷ USD, chiếm 26,7% tổng vốn, tăng 31,4% so với năm 2023. Hàn Quốc đứng thứ hai với gần 7,06 tỷ USD, chiếm 18,5%, tăng 37,5%. Tiếp theo là Trung Quốc, Hồng Kông (Trung Quốc) và Nhật Bản.
Trong khi đó, các địa phương với hạ tầng tốt và chính sách ưu đãi như Bắc Ninh, Hải Phòng, TP. Hồ Chí Minh dẫn đầu trong thu hút vốn FDI. Bắc Ninh dẫn đầu với số vốn FDI gần 5,12 tỷ USD, gấp hơn 2,8 lần so với năm 2023. Hải Phòng và TP. Hồ Chí Minh lần lượt đứng thứ hai và ba với hơn 4,94 tỷ USD và 3,04 tỷ USD.
Đến hết năm 2024, Việt Nam đã thu hút 502,8 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài lũy kế vào 42.002 dự án còn hiệu lực; trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm tỷ trọng cao nhất với hơn 308,76 tỷ USD, tiếp theo là bất động sản với gần 73,18 tỷ USD và sản xuất, phân phối điện với 41,93 tỷ USD.
Hàn Quốc dẫn đầu về tổng vốn đăng ký với hơn 92 tỷ USD, tiếp theo là Singapore với 83,13 tỷ USD và Nhật Bản, Đài Loan (Trung Quốc), Hồng Kông (Trung Quốc). Về địa phương, TP. Hồ Chí Minh dẫn đầu với gần 59 tỷ USD, Bình Dương và Hà Nội đứng thứ hai và ba với lần lượt 42,48 tỷ USD và 42,34 tỷ USD.
Trong năm 2024, FDI thực hiện tại Việt Nam ước đạt 25,35 tỷ USD, tăng 9,4% so với năm trước. Trong đó: Công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 20,62 tỷ USD, chiếm 81,4% tổng vốn FDI thực hiện; hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 1,84 tỷ USD, chiếm 7,2%; sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí đạt 1,07 tỷ USD, chiếm 4,2%.
Theo Cục Đầu tư nước ngoài, năm 2024, khu vực đầu tư nước ngoài tiếp tục ghi nhận những đóng góp quan trọng trong hoạt động xuất, nhập khẩu. Xuất khẩu, bao gồm dầu thô, ước đạt gần 290,8 tỷ USD, tăng 12,2% so với năm 2023, chiếm 71,8% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Nếu không kể dầu thô, xuất khẩu đạt hơn 289 tỷ USD, tăng 12,4%, chiếm 71,4% tổng kim ngạch.
Ở chiều ngược lại, nhập khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài đạt gần 241,6 tỷ USD, tăng 15,5%, chiếm 63,4% tổng kim ngạch nhập khẩu. Nhờ đó, khu vực đầu tư nước ngoài xuất siêu gần 49,2 tỷ USD nếu tính cả dầu thô và 47,5 tỷ USD không kể dầu thô, giúp bù đắp phần nhập siêu hơn 25,4 tỷ USD của khu vực doanh nghiệp trong nước, đưa cả nước đạt mức xuất siêu 23,8 tỷ USD.
Cũng trong năm 2024, Chính phủ đã khôi phục Nghị quyết số 02/NQ-CP về cải cách môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, qua đó, nhấn mạnh ưu tiên tập trung vào xử lý các vấn đề đối với môi trường kinh doanh. Bên cạnh 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) đã đi vào thực hiện hoặc hoàn tất ký kết, Việt Nam đang tích cực đàm phán, thúc đẩy một loạt các FTA khác nhằm cải thiện liên kết kinh tế, gia tăng cơ hội cho nhà đầu tư nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam.
Triển vọng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2025
Hình 4: Tốc độ tăng/giảm vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội theo giá hiện hành các năm giai đoạn 2020-2024 (%)
Trong năm 2025, Việt Nam dự báo vẫn có những điều kiện tương đối thuận lợi để thu hút FDI. Trước hết, ở bình diện khu vực ASEAN, triển vọng gia tăng thu hút FDI vẫn rất tích cực. Theo UNCTAD (2024), thu hút FDI ở khu vực ASEAN có thể đạt mức trung bình 300 tỷ USD/năm trong giai đoạn 2024-2030. Là một nền kinh tế tăng trưởng năng động ở ASEAN, Việt Nam có thể thu hút được thêm các dự án FDI. Khảo sát của Bain & Company cho thấy, các nhà đầu tư đánh giá hoạt động đầu tư vào Việt Nam có thể sẽ tăng 83% trong giai đoạn 2025 - 2030.
Bên cạnh đó, trong bối cảnh căng thẳng thương mại có thể gia tăng giữa một số nền kinh tế lớn, các nhà đầu tư sẽ có xu hướng tiếp tục đa dạng hóa địa điểm đầu tư, ưu tiên các địa điểm có kết nối hiệu quả đến nhiều thị trường xuất nhập khẩu. Theo đó, với mạng lưới FTA kết nối khoảng 60 thị trường khác nhau và đang đàm phán một số FTA khác, Việt Nam có mức độ hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Ở góc độ vĩ mô, việc duy trì lạm phát và tỷ giá ở mức độ ổn định tương đối so với nhiều nền kinh tế trong khu vực cũng sẽ giúp Việt Nam thu hút được sự quan tâm đáng kể từ nhà đầu tư nước ngoài, thể hiện ở việc: (i) Cung cấp nhiều lựa chọn kết nối với thị trường với ưu đãi thuế quan cho các doanh nghiệp hướng xuất khẩu; (ii) Mở rộng cơ hội kết nối đến mạng lưới các nhà cung ứng cho nhà đầu tư nước ngoài. Tỷ giá VNĐ/USD ở Việt Nam biến động thấp hơn nhiều so với chỉ số USD Index vì vậy, nhà đầu tư nước ngoài có thể được lợi về “ổn định tỷ giá” khi đầu tư ở Việt Nam.
Việt Nam sẽ có một số cơ hội quan trọng từ thu hút FDI trong thời gian tới, cụ thể là:
Thứ nhất, nguồn vốn FDI sẽ giúp bổ sung nguồn lực quan trọng cho nền kinh tế. Theo số liệu kinh tế - xã hội trong năm 2024 của Tổng cục Thống kê, khu vực có vốn FDI chiếm tỷ trọng 16,5% trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội (giá hiện hành), tăng 10% so với năm 2023. Gia tăng vốn FDI sẽ đi kèm với cơ hội chuyển giao công nghệ và kỹ năng quản trị sản xuất cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Thứ hai, nguồn vốn FDI có thể giúp cải thiện năng lực xuất khẩu cho Việt Nam. Cần lưu ý, trong năm 2024, khu vực có vốn FDI chiếm tỷ trọng gần 71,7% trong tổng xuất khẩu của Việt Nam. Ước lượng kinh tế lượng của tác giả khi vốn FDI thực hiện tăng 1% thì năng lực xuất khẩu của Việt Nam sẽ tăng 0,1% trong ngắn hạn và 0,88% trong dài hạn.
Thứ ba, với vai trò quản lý các chuỗi cung ứng và nắm bắt thông tin về xu hướng công nghệ và quy định ở các thị trường xuất khẩu, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có thể thúc đẩy quá trình thích ứng của kinh tế Việt Nam nói chung và doanh nghiệp Việt Nam nói riêng với các xu hướng lớn. Chẳng hạn, để đáp ứng các quy định về phát triển bền vững ở các thị trường xuất khẩu, kinh nghiệm tổ chức sản xuất và công nghệ từ của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ là nền tảng quan trọng giúp doanh nghiệp Việt Nam cải tiến sản phẩm và quy trình sản xuất theo hướng thân thiện hơn với môi trường, giảm phát thải, tận dụng hiệu quả hơn tài nguyên thiên nhiên.
Tuy nhiên, Việt Nam cũng phải xử lý một số vấn đề, thách thức để công tác thu hút đầu tư nước ngoài đạt hiệu quả cao hơn. Theo đó, thu hút FDI có chất lượng là một yêu cầu đúng đắn, song cần đi kèm với việc cụ thể hóa các tiêu chí về chất lượng của dự án, phù hợp với định hướng phát triển của nền kinh tế. Đồng thời, tư duy liên kết vùng còn chưa thể hiện rõ trong công tác thu hút đầu tư nước ngoài, dẫn tới việc một số địa phương gần nhau về mặt địa lý còn giữ cách tiếp cận cạnh tranh thu hút các dự án đầu tư có tính tương đồng, thay vì tư duy thu hút các dự án đầu tư nước ngoài có khả năng bổ trợ và cải thiện khả năng kết nối trong chuỗi cung ứng. Bên cạnh đó, các quy định pháp lý cụ thể cho một số mô hình kinh tế mới, đặc biệt là kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn... còn chậm được cụ thể hóa. Chẳng hạn, quy định về tiêu chí môi trường để phân loại dự án được cấp tín dụng xanh, phát hành trái phiếu xanh còn chưa ban hành tại thời điểm tháng 12/2024. Sớm cải thiện khung pháp lý sẽ là điều kiện quan trọng để thu hút sự quan tâm, đầu tư của các nhà đầu tư nói chung và nhà đầu tư nước ngoài nói riêng.
Thứ tư, trong bối cảnh thực thi thuế tối thiểu toàn cầu, Việt Nam cần cân nhắc các giải pháp phù hợp, không trái với cam kết quốc tế để hỗ trợ, tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư nước ngoài, qua đó, giúp bảo đảm tính khả thi và hiệu quả của dự án FDI tại Việt Nam.
Một số kiến nghị chính sách
Để cải thiện hiệu quả thu hút FDI trong thời gian tới, Việt Nam cần cân nhắc một số nội dung sau:
Một là, tiếp tục theo dõi, đánh giá, dự báo sát tình hình kinh tế thế giới và trong nước với các kịch bản đủ chi tiết, trong đó có tính đến tác động của căng thẳng/chiến tranh thương mại giữa một số nền kinh tế lớn, diễn biến lãi suất và tỷ giá ở Mỹ và một số thị trường chính, xu hướng dịch chuyển đầu tư vào châu Á và Đông Nam Á, xu hướng gia tăng các quy định về phát triển bền vững có ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu ở các thị trường... Cân nhắc chặt chẽ về lộ trình điều chỉnh giá các hàng hóa và dịch vụ do nhà nước quản lý và lương tối thiểu, trên cơ sở đánh giá và tham vấn cộng đồng doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp FDI.
Hai là, đẩy nhanh cải cách thể chế kinh tế, đơn giản hóa các điều kiện kinh doanh và thủ tục hành chính để giảm chi phí sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp. Cân nhắc tích cực hơn về việc điều chỉnh các quy định trong một số lĩnh vực dịch vụ (phân phối dược phẩm, ngân hàng) để tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài tham gia ở mức độ thích hợp. Nghiên cứu, đề xuất và triển khai thực hiện cơ chế đặc thù cho phát triển một số vùng kinh tế - xã hội, đô thị lớn gắn với thu hút các dự án FDI quy mô lớn. Rà soát, hoàn thiện khung chính sách để mở rộng không gian phát triển cho các mô hình kinh tế mới (kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế sáng tạo).
Ba là, tập trung tháo gỡ các khó khăn về tiếp cận các thị trường xuất khẩu, đẩy nhanh tạo thuận lợi thương mại, khuyến khích đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tìm kiếm và khai thác hiệu quả các thị trường ngách. Rà soát, nâng cao năng lực tận dụng ưu đãi trong các hiệp định thương mại tự do. Thường xuyên tham vấn cộng đồng nhà đầu tư nước ngoài, về các yêu cầu về thể chế, hạ tầng và nguồn nhân lực để giúp các dự án FDI cải thiện năng lực cạnh tranh xuất khẩu, đồng thời, tạo điều kiện cho doanh nghiệp Việt Nam tham gia chuỗi giá trị toàn cầu và khu vực.
Bốn là, hoàn thiện và triển khai hiệu quả khung chính sách cải thiện năng suất lao động, gắn với thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tăng kỹ năng và chuyển đổi kỹ năng cho người lao động để thích ứng với các mô hình kinh tế mới và thúc đẩy chuyển giao công nghệ từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đối với khu vực doanh nghiệp trong nước.
Năm là, các cơ quan Việt Nam cần thường xuyên trao đổi, đối thoại, chia sẻ kinh nghiệm với các nước trong khu vực ASEAN, từ đó, thúc đẩy các sáng kiến phù hợp nhằm hài hòa hóa các quy định có liên quan, cần thiết nhằm cải thiện hiệu quả thu hút FDI vào khu vực, tránh tình trạng cạnh tranh quá mức theo hướng “đua xuống đáy”.