Từ bỏ ưu đãi qua thuế để thu hút FDI chất lượng
Theo TS. Hồ Đình Bảo, chuyên gia tư vấn của UNDP (Chương trình Phát triển của Liên Hợp quốc), Việt Nam cần chuyển định hướng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) từ số lượng sang chất lượng.
Theo đó, cần nhanh chóng từ bỏ việc sử dụng các biện pháp khuyến khích qua thuế và các đặc quyền khác như là những biện pháp để thu hút FDI.
Khối lượng FDI lớn nhưng chất lượng còn khiêm tốn
Báo cáo đánh giá tình hình tài chính cho phát triển của Việt Nam được UNDP công bố gần đây cho thấy, quy mô dòng FDI vào Việt Nam tăng lên nhanh chóng, đặc biệt từ khi Việt Nam gia nhập WTO. Hơn nữa, những dòng FDI này cũng luôn ở mức cao so với các nước ASEAN khác, trừ Singapore. FDI đã có vai trò then chốt trong nền kinh tế Việt Nam, đóng góp khoảng 20% GDP của cả nước (từ 15,2% năm 2005), 72% giá trị xuất khẩu (từ 57% năm 2005), 18% nguồn thu ngân sách nhà nước và tạo ra 3,7 triệu việc làm cho người lao động Việt Nam năm 2017.
Mặc dù có mức tăng trưởng lớn về số lượng nhưng chất lượng các FDI trên thực tế còn khiêm tốn. Các chuyên gia chỉ ra những mối quan ngại ngày càng tăng về FDI ở những ngành tăng trưởng nhanh như bất động sản và năng lượng, khai khoáng, các ngành công nghiệp công nghệ thấp và lâm nghiệp. Đây là những ngành sử dụng nhiều đất đai và năng lượng, khai thác tài nguyên thiên nhiên, gây ra ô nhiễm và xuống cấp về môi trường.
Các công trình nghiên cứu đã cho thấy, nhiều dự án FDI có chất lượng công nghệ thấp và rất ít hiệu ứng lan tỏa, đặc biệt trong chuyển giao công nghệ cho các doanh nghiệp (DN) trong nước và kết nối họ với các chuỗi giá trị toàn cầu, được coi là những yếu tố chính thúc đẩy năng suất lao động và năng lực cạnh tranh của các công ty Việt Nam. Mặc dù, những diễn biến gần đây cho thấy rằng, tình hình đã bắt đầu cải thiện. Số lượng các DN Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu của Samsung đã tăng lên đáng kể, nhiều hơn 50 lần trong khoảng thời gian chưa đầy 4 năm, từ 4 DN năm 2014 lên 219 DN năm 2017, trong đó 29 DN là những nhà cung ứng cấp một và 190 DN là nhà cung ứng cấp hai.
Cần từ bỏ các biện pháp khuyến khích qua thuế
Các chuyên gia cho rằng, các biện pháp kích thích qua thuế và các đặc quyền khác mà Việt Nam cũng như nhiều nước khác dành cho các nhà đầu tư để thu hút thêm FDI, ngoài việc tạo ra một sân chơi không bình đẳng cho các DN trong nước còn có thể trực tiếp giảm nguồn thu của Chính phủ, làm hạn chế những lợi ích của đầu tư đối với các nguồn tài chính công và giảm quy mô kinh phí cho các dịch vụ và đầu tư công.
TS. Hồ Đình Bảo nêu ví dụ: Theo quy định hiện hành, các DN FDI công nghệ cao có thể được đóng mức thuế thu nhập DN (TNDN) rất thấp, chỉ 10% trong toàn bộ vòng đời dự án, 0% trong 4 năm đầu và 5% trong 9 năm tiếp theo. Điều này được áp dụng với trường hợp Samsung, kể cả các công ty con không có công nghệ cao của Samsung. Do các biện pháp khuyến khích qua thuế, năm 2013 (năm đầu tiên thuế suất TNDN 5% được áp dụng), Samsung Việt Nam xuất khẩu được 23 tỷ USD hàng hóa, nhưng chỉ trả 1.000 tỷ VND thuế TNDN (khoảng 50 triệu USD). Năm 2015, Samsung đạt mức lợi nhuận hơn 70.000 tỷ VND, nhưng chỉ trả 1.684 tỷ VND thuế TNDN, trong khi đó, nếu áp dụng thuế suất TNDN bình thường, lượng thuế mà Samsung phải trả lên tới 13.000 tỷ VND.
Theo các chuyên gia của UNDP, có bằng chứng cho thấy phần lớn các cuộc “cạnh tranh qua thuế” là có hại và không cần thiết. Các nước trong khu vực thường xuyên chào mời các biện pháp kích thích qua thuế như miễn hay giảm thuế là những biện pháp có hại nhất, mặc dù thực tế các cuộc khảo sát trong và ngoài khu vực cho thấy thuế thường là một ưu tiên thấp hơn để xác định các nhà đầu tư sẽ đầu tư vào đâu so với các vấn đề khác.
TS. Hồ Đình Bảo cho rằng, Việt Nam cần chuyển định hướng thu hút FDI từ số lượng sang chất lượng. Theo đó, cần từng bước chấm dứt các biện pháp khuyến khích qua thuế và các đặc quyền khác, thay vào đó cần nỗ lực cải thiện môi trường kinh doanh, hạ tầng cơ sở, các tiện ích và nguồn cung lao động đã qua đào tạo - những yếu tố căn bản để các nhà đầu tư đưa ra quyết định có đầu tư hay không đầu tư - như những công cụ chủ yếu để thu hút FDI có chất lượng.
Thêm vào đó, cần từng bước thực hiện các tiêu chuẩn quốc tế để nâng tầm trình độ công nghệ, nội dung tại chỗ và mối liên kết với chuyển giao công nghệ cho các công ty trong nước của các DN FDI. Đồng thời, tăng cường năng lực thể chế và các hệ thống rà soát chặt chẽ hơn, thẩm định kỹ càng hơn và phê duyệt các dự án FDI để bảo đảm sự tuân thủ những tiêu chuẩn đó.
Bên cạnh đó, để giảm thiểu các yếu tố có hại của cuộc “cạnh tranh qua thuế” trong vùng, Việt Nam cần tăng cường sự tham gia tích cực hơn vào các sáng kiến quốc tế, nhằm xây dựng các bộ quy tắc ứng xử, như thanh tra thuế không biên giới (TIWB) và khung bao trùm về xói mòn cơ sở và chuyển giá (BEPS), trong đó có cả những hành động để xử lý tập quán thuế có hại.