Từ năm 2018, cách tính tỷ lệ hưởng lương hưu quy định thế nào?
Bảo hiểm Xã hội Việt Nam cho biết, từ ngày 1/1/2018, theo Luật Bảo hiểm Xã hội năm 2014 sẽ thay đổi cách tính tỷ lệ % hưởng lương hưu đối với lao động nam và lao động nữ.
Hưởng 75% lương hưu khi đóng BHXH đủ 30 năm
Theo Bảo hiểm Xã hội (BHXH) Việt Nam, đối với lao động nam nghỉ hưu từ năm 2018 trở đi, lao động nam được tính bằng 45% mức bình quân tiền lương tháng hoặc thu nhập tháng đóng BHXH khi có thời gian đóng BHXH đủ 16 năm và nghỉ hưu năm 2018; đủ 17 năm và nghỉ hưu năm 2019; đủ 18 năm và nghỉ hưu năm 2020; đủ 19 năm và nghỉ hưu năm 2021; đủ 20 năm và nghỉ hưu từ năm 2022 trở đi.
Đối với lao động nữ nghỉ hưu từ năm 2018 trở đi, thì 15 năm đóng BHXH được tính bằng 45% mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH. Sau đó, cứ thêm mỗi năm đóng BHXH, người lao động (cả nam và nữ) được tính thêm 2%, mức tối đa bằng 75%.
Như vậy, lao động nữ đủ 55 tuổi, nghỉ hưu từ năm 2018 trở đi phải có đủ 30 năm đóng BHXH mới được hưởng tối đa 75%, còn lao động nam nghỉ hưu năm 2018 phải đủ 31 năm đóng BHXH; nghỉ năm 2019 phải có đủ 32 năm, nghỉ năm 2020 phải có đủ 33 năm; nghỉ năm 2021 phải đủ 34 năm và nghỉ từ năm 2022 trở đi phải đủ 35 năm đóng BHXH mới được hưởng tỷ lệ tối đa là 75%.
Theo tính toán của BHXH Việt Nam, đối với lao động nam thì cách tính này chỉ tác động đến những người chưa đạt đủ số năm để hưởng tối đa là 75% và ảnh hưởng đến mức trợ cấp một lần khi nghỉ hưu. Còn đối với lao động nữ, việc thay đổi cách tính lương hưu sẽ ảnh hưởng đến lao động nữ nhiều hơn, nhất là nữ có dưới 30 năm đóng BHXH, số năm đóng BHXH càng ít thì tác động càng lớn.
Theo số liệu thống kê của BHXH Việt Nam, có khoảng 68% số người nghỉ hưu được hưởng trợ cấp một lần khi nghỉ hưu. Như vậy, với cách tính này ảnh hưởng hơn đến những người nghỉ hưu sớm (chiếm khoảng 32%).
Cũng theo thống kê của BHXH Việt Nam, thời gian đóng BHXH bình quân của người nghỉ hưu trong 4 năm trở lại đây thì lao động nam có thời gian đóng BHXH bình quân là trên 32 năm, còn lao động nữ là 29 năm.
Mức hưởng lương hưu phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Tuổi đời, thời gian, đóng BHXH, mức lương đóng BHXH, điều kiện làm việc… tỷ lệ hưởng lương hưu sẽ thấp khi nghỉ hưu sớm và càng thấp hơn nếu thời gian đóng BHXH không nhiều. Do đó, BHXH Việt Nam cho rằng, khi người lao động còn trẻ, khỏe, có công việc tốt thì nên tiếp tục đóng BHXH cho đến khi đủ tuổi nghỉ hưu để nhận được mức lương hưu tốt nhất, giúp đảm bảo tốt hơn cuộc sống của mình khi về hưu.
Xác định tiền lương theo ngạch, bậc
Từ ngày 1/1/2018, tiền lương làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc vẫn là tiền lương theo ngạch, bậc, cấp bậc quân hàm (hệ số) và các khoản phụ cấp chức vụ (hệ số), phụ cấp thâm niên vượt khung (%), phụ cấp thâm niên nghề % trên cơ sở mức lương do Nhà nước quy định từng thời kỳ.
Theo đó, mức lương làm căn cứ đóng BHXH theo bảng lương do doanh nghiệp tự xây dựng. Phụ cấp lương là khoản tiền bù đắp các yếu tố về điều kiện lao động, tính chất phức tạp công việc; điều kiện sinh hoạt, mức độ thu hút lao động, phụ cấp chức vụ, chức danh, trách nhiệm, nặng nhọc, độc hại, thâm niên; phụ cấp lưu động; phụ cấp thu hút và các phụ cấp có tính chất tương tự.
Các khoản bổ sung khác là tiền ngoài mức lương, phụ cấp lương và có liên quan đến thực hiện công việc hoặc chức danh trong hợp đồng lao động. Các khoản bổ sung khác không bao gồm tiền thưởng theo quy định tại Điều 103 của Bộ luật Lao động; tiền ăn giữa ca; các khoản hỗ trợ khi người lao động có thân nhân bị chết, có người thân kết hôn, sinh nhật, bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và các khoản hỗ trợ, trợ cấp khác không liên quan đến thực hiện công việc hoặc chức danh trong hợp đồng lao động.
Việc đóng BHXH trên tiền lương thực tế là để đảm bảo quyền lợi cho người lao động, khi nghỉ hưởng chế độ ốm đau, thai sản, nghỉ hưu… mức hưởng sẽ cao hơn. Cụ thể, tiền lương tháng đóng BHXH bắt buộc thấp nhất bằng mức lương tối thiểu vùng và cao nhất bằng 20 lần mức lương cơ sở theo quy định.
Tiền lương tháng đóng BHXH đối với người làm công việc hoặc chức danh giản đơn nhất trong điều kiện lao động bình thường không được thấp hơn mức lương tối thiểu vùng; công việc hoặc chức danh đòi hỏi lao động qua đào tạo, học nghề phải cao hơn ít nhất 7% so với mức lương tối thiểu vùng; công việc hoặc chức danh có điều kiện lao động nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm phải cao hơn ít nhất 5%; công việc hoặc chức danh có điều kiện lao động đặc biệt nặng nhọc, độc hại nguy hiểm phải cao hơn ít nhất 7% so với mức lương của công việc hoặc chức danh có độ phức tạp thương đương, làm việc trong điều kiện lao động bình thường.