Xuất khẩu xi măng: Cần tính đến yếu tố bền vững
Xuất khẩu xi măng, clinker tiếp tục duy trì đà tăng trưởng trong quý I/2021, tăng 16% về lượng và gần 7% về trị giá so với cùng kỳ đạt 10,15 triệu tấn. Với số lượng xuất khẩu xi măng tương đối lớn như vậy có thể giải tỏa năng lực sản xuất trong nước, nhưng thực tế về lâu dài, đây không phải là giải pháp bền vững.
Nguồn cung xi măng trong nước vẫn đang tăng lên do tốc độ đầu tư mở rộng vẫn đang tiếp tục, dù đã được điều chỉnh cho phù hợp với tốc độ tiêu thụ xi măng dựa trên tăng trưởng kinh tế và chiến lược phát triển ngành xây dựng.
Tính đến cuối năm 2020, ngành xi măng Việt Nam có 90 dây chuyền sản xuất clinker, xi măng với tổng công suất 107 triệu tấn (tính theo 80% clinker + 20% phụ gia). Thực tế công suất có thể sản xuất khoảng 120-130 triệu tấn xi măng (70% clinker + 30% phụ gia).
Nhìn vào sản lượng tiêu thụ nội địa những năm gần đây gần như không tăng trưởng và chứng lại thấy rõ năm 2020 đã sụt giảm 3 triệu tấn so với 2019, nhưng nhờ xuất khẩu tăng vọt, sản lượng tiêu thụ toản ngành vẫn đạt trên 100 triệu tấn, gỡ khó cho các doanh nghiệp khỏi tình trạng dư thừa.
Theo đánh giá của Hiệp hội Xi măng Việt Nam (VNCA), ở bình diện chung của ngành, xét về sản lượng thì kênh xuất khẩu đã cứu các doanh nghiệp khỏi cảnh dư thừa do nguồn cung đã vượt cầu tới 40 triệu tấn. Nhờ xuất khẩu tăng vọt, tiêu thụ toàn ngành vẫn đạt trên 100 triệu tấn.
“Tiêu thụ thị trường nội địa đang chững lại ở mức 62 triệu tấn trong năm 2020, thị trường xuất khẩu tăng nhưng tiềm ẩn yếu tố không bền vững”- Báo cáo thường niên ngành xi măng năm 2020 nhận định.
Trong khi đó, lượng tiêu thụ nội địa những năm gần đây gần như không tăng, mà chững lại. Cụ thể, năm 2015 đạt 55,68 triệu tấn, năm 2016: 59,34 triệu tấn, năm 2017 nhích nhẹ lên 60,27 triệu tấn, năm 2018: 63,94 triệu tấn, năm 2019 đạt xấp xỉ 65 triệu tấn, nhưng đến năm 2020 lại giảm 3 triệu tấn còn 62,12 triệu tấn.
Tìm giải pháp hiệu quả và bền vững
Trông chờ vào xuất khẩu để giảm áp lực dư cung và tồn kho, nhưng các doanh nghiệp sản xuất xi măng luôn phải đối mặt với những yếu tố rủi ro, không bền vững.
Với quy mô công suất vượt 100 triệu tấn và khả năng sản xuất lớn hơn thế, ngành xi măng Việt Nam được coi là có quy mô và sức ảnh hưởng đáng kể tới các thị trường xi măng trong khu vực. Còn trên toàn cầu, Việt Nam đang xếp thứ 5 trên thế giới về năng lực sản xuất xi măng chỉ sau Trung Quốc, Ấn Độ, Mỹ và Nga.
Theo Công ty TNHH Chứng khoán Mirae Asset, xuất khẩu xi măng, clinker năm 2021 vẫn đang thuận lợi vì một số thị trường chủ lực như Trung Quốc, Philippnes vẫn có nhu cầu nhập khẩu một lượng lớn từ Việt Nam.
Số liệu cho thấy, xuất khẩu sang thị trường này trong năm qua đạt gần 22 triệu tấn, tăng 5 triệu tấn so với 2019. Nhưng, trong khi giá xuất khẩu trung bình sang các thị trường đạt khoảng 37,2 USD/tấn thì xuất bán sang thị trường trường Trung Quốc, thấp hơn mặt bằng chung, ước chỉ đạt 33,2 USD/tấn.
Bên cạnh đó, có một thực tế, doanh nghiệp xi măng thường luôn chịu sự ảnh hưởng trực tiếp từ giá than và giá điện. Cụ thể, ngành xi măng có rủi ro lớn do chi phí giá than và giá điện chiếm 40- 45% giá thành sản xuất clinker. Đặc biệt trong ngành xi măng, giá clinker chiếm hơn 60% chi phí nguyên liệu đầu vào xi măng, khiến lợi nhuận của cả ngành biến động rất lớn theo giá điện và giá than.
Một số doanh nghiệp xi măng bày tỏ, kênh xuất khẩu đang có thuận lợi nhất định để tiêu thụ một sản lượng đáng kể trong ngành xi măng, đặc biệt, giá clinker từ đầu năm đã tăng nhẹ, nhưng chỉ cần giá than, điện tăng nhẹ thì hiệu quả xuất khẩu sẽ không cao.
Ngoài ra, trong ngắn hạn, việc xuất khẩu nhiều có thể giải tỏa năng lực sản xuất trong nước, nhưng về lâu dài, đây không phải là giải pháp bền vững. Xi măng là ngành khai thác tài nguyên không tái tạo, xuất khẩu nhiều sẽ làm cạn kiệt tài nguyên, nhất là trong bối cảnh bị ép giá, lợi nhuận không lớn.
Liên quan đến việc đánh giá như thế nào về hiệu quả của xuất khẩu xi măng, theo một số chuyên gia kinh tế nhìn nhận, xuất khẩu xi măng cần phải tính toán đến các yếu tố như: Chi phí đầu vào với giá xuất khẩu của xi măng nó phản ánh đầy đủ tất cả thiệt hại cũng như giá trị xuất khẩu, kể cả khai thác tài nguyên cũng như chi phí để bảo vệ môi trường hay chưa?
Những vấn đề đó, phải đánh giá một cách kỹ lưỡng hơn nữa giữa các bộ ngành và cơ quan quản lý. Nếu muốn định hướng cho xuất khẩu thì bắt buộc cần tính đến việc điều chỉnh quy hoạch ngành nhằm đảm bảo cơ sở về pháp lý cho việc thực hiện.
Hơn nữa, hiệu quả của xuất khẩu xi măng cần tính đến nguyên tắc thị trường, tức là đầu vào của các nguyên nhiên liệu cho ngành công nghiệp đó, chứ không thể tiếp tục trợ giá dưới bất kỳ hình thức nào vì thực tế giá điện, xăng dầu điều hành theo nguyên tắc thị trường, do vậy buộc các doanh nghiệp phải tính đúng, tính đủ để từ đó có hướng sản xuất, cải tiến công nghệ cũng như thay đổi kỹ năng quản trị kể cả trong hoạt động thị trường, xuất khẩu nhằm đảm bảo chi phí và nâng cao hiệu quả trong tiêu thụ và xuất khẩu xi măng.