Bài học từ nâng cao năng suất lao động của Nhật Bản và Singapore
Nhật Bản, Singapore là hai quốc gia trong khu vực châu Á có tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm ở mức cao. Một trong những bài học quan trọng “thúc” nền kinh tế của 2 nước này trong việc duy trì tốc độ tăng trưởng GDP ở mức cao là nhờ vào cải tiến năng suất lao động, rút ngắn khoảng cách phát triển và khởi xướng phong trào năng suất để giải quyết kịp thời các vấn đề đang gặp phải…
Nhật Bản: 3 công cụ trong cải thiện năng suất
Nhật Bản được biết đến là nước có năng suất lao động (NSLĐ) cao hàng đầu thế giới và có quá trình cải thiện NSLĐ hiệu quả. Ông Kazuteru Kuroda - Chuyên gia về NSLĐ thuộc Trung tâm Năng suất Nhật Bản cho biết, Nhật Bản đã sử dụng 3 công cụ quan trọng trong cải thiện NSLĐ trong giai đoạn từ 1960 đến những năm 1980 là: Hệ thống quản lý chất lượng toàn diện (TQM); Bảo trì năng suất tổng thể (TPM); Sản xuất tiết kiệm hay cải tiến liên tục (Lean hay Kaizen).
Cụ thể, với công cụ thứ nhất là Hệ thống quản lý chất lượng toàn diện (TQM) cũng được nhiều nước trên thế giới đánh giá là một hệ thống quản lý chất lượng mang lại hiệu quả cao. Đây là công cụ tiếp cận về quản lý chất lượng ở mọi công đoạn, nhằm nâng cao năng suất và hiệu quả chung của doanh nghiệp hay của tổ chức. Chính nhờ áp dụng thành công TQM mà chất lượng sản phẩm của Nhật Bản sau vài thập niên từ yếu kém đã nâng lên một trình độ cao, có uy tín trên thế giới.
Công cụ thứ hai là Bảo trì năng suất tổng thể (TPM). Đây là công cụ quản lý được áp dụng đầu tiên tại Nhật Bản, sau đó được phổ biến, áp dụng rộng rãi trong các ngành sản xuất công nghiệp trên toàn thế giới. TPM là một tư duy hay phương pháp quản lý liên kết hai khái niệm Bảo trì (hay còn được hiểu là Duy trì) và Năng suất chất lượng. TPM cải thiện sử dụng máy móc nhờ công tác bảo trì tốt. TPM cũng hạn chế việc dừng chạy máy đột xuất, tạo điều kiện làm việc 24 giờ mỗi ngày trong điều kiện tốt nhất. Phương pháp này đang được áp dụng mạnh mẽ vào công nghiệp sản xuất và công nghiệp dịch vụ.
Công cụ thứ ba là sản xuất tiết kiệm hay cải tiến liên tục (Lean hay Kaizen). Trong đó, “Lean” là một hệ thống các công cụ và phương pháp nhằm liên tục loại bỏ tất cả những lãng phí trong quá trình sản xuất. Lợi ích chính của hệ thống này là giảm chi phí sản xuất, tăng sản lượng và rút ngắn thời gian sản xuất.
“Kaizen” có nghĩa là “cải thiện”. Bản chất của Kaizen là thay đổi, không bằng lòng với hiện trạng hay phương pháp hiện tại mà luôn tìm kiếm một phương pháp tốt hơn. Nhờ phương pháp này mà Nhật Bản đã tạo ra được Công ty Toyota hay những tập đoàn hàng đầu thế giới khác của Nhật Bản.
Singapore: Điển hình về đổi mới phong trào năng suất
Singapore là nước có nền kinh tế phát triển nhanh trong khu vực Đông Nam Á (Kể từ khi giành được độc lập, giai đoạn 1965 - 2004, mức độ tăng trưởng kinh tế trung bình hàng năm đạt 7%). Trong giai đoạn này, GDP bình quân trên đầu người đã tăng hơn 50 lần và hiện tại đang ở mức khoảng 28.000 USD. Để đạt được thành tựu kinh tế to lớn này là nhờ Singapore đã quản lý rất tốt về nguồn lực về con người và phong trào năng suất.
Năm 1965, “hạt giống” đầu tiên về Phong trào năng suất đã được gieo trồng với việc ký kết Bản hiến chương về sự phát triển công nghiệp giữa Ủy ban Công đoàn Quốc gia và Liên đoàn giới chủ Singapore. Bản hiến chương này bao gồm các nguyên tắc về thực hành năng suất và thành lập Trung tâm Năng suất quốc gia để thúc đẩy năng suất tại Singapore.
Đến năm 1972, Trung tâm Năng suất đã được chuyển thành Cơ quan Năng suất Quốc gia (NPB) và được giao nhiệm vụ phát triển một lực lượng lao động đạt tầm cỡ thế giới. Vào đầu những năm 1980, do thị trường lao động nhỏ dẫn đến gia tăng về lương.
Đến những năm 1990, phong trào năng suất đã tạo ra được một ý thức về sự cấp thiết cần thay đổi thái độ làm việc, nâng cao ý thức về chất lượng và làm việc theo tổ đội. Người chủ và người lao động đã nhận thức được tầm quan trọng và lợi ích của năng suất.
Tuy nhiên, trong những năm tiếp theo, môi trường kinh tế thay đổi, kết quả của quá trình toàn cầu hóa, cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Nền kinh tế, từ nền kinh tế dựa vào lao động và sau đó là dựa vào đầu tư, sẽ không còn phụ thuộc vào lao động đầu tư để phát triển.
Mở rộng nền kinh tế phải đến từ việc cải tiến hiệu quả việc sử dụng các nguồn lực của đất nước hay gọi là Các yếu tố năng suất tổng thể (TFP). Các yếu tố tác động đến TFP bao gồm phát triển nguồn nhân lực, các hệ thống quản lý, đổi mới và cơ cấu lại nền kinh tế. Điều này đã dẫn tới sự hợp nhất giữa NPB và Viện Tiêu chuẩn và Nghiên cứu Công nghiệp Singapore thành Cơ quan Năng suất và Tiêu chuẩn Singapore (PSB) vào năm 1996.
Để quản lý tốt hơn các yếu tố quyết định đến TFP, các lĩnh vực hoạt động mới của PSB là quảng bá năng suất, phát triển nhân lực, ứng dụng công nghệ, phát triển các tiêu chuẩn và chất lượng. Theo chính sách của Chính phủ, PSB cũng thực hiện một số dịch vụ thu phí như đào tạo, tư vấn, ứng dụng công nghệ, thử nghiệm và chứng nhận.
Tuy nhiên, đến năm 2002, PSB đổi tên thành Cơ quan Tiêu chuẩn, Năng suất và Đổi mới (SPRING) để tập trung vào phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, quảng bá và đổi mới, chuẩn hóa và đo lường.
Sau nhiều năm đẩy mạnh triển khai Phong trào năng suất đã nhận được sự hỗ trợ lớn từ các tổ chức như: Dịch vụ công, Bộ Quốc phòng và Ủy ban Công đoàn quốc gia. Mỗi tổ chức này đều có các Ủy ban Chỉ đạo Năng suất, Ủy ban này điều phối và tổ chức hoạt động thường xuyên để duy trì các hoạt động cải tiến năng suất cho lực lượng lao động của mình.