Bàn thêm về một số giải pháp xử lý nợ xấu trong bối cảnh hiện nay
Hiện nay, hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã vượt qua giai đoạn khó khăn. Các ngân hàng hoạt động ổn định, thanh khoản bảo đảm, tỷ lệ nợ xấu được kiểm soát, khống chế chặt chẽ, lãi suất cho vay giảm giúp doanh nghiệp phục hồi sản xuất, kinh doanh, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội. Tuy vậy, quá trình xử lý nợ xấu vẫn gặp nhiều vướng mắc. Bài viết phân tích thực trạng tình hình nợ xấu và đưa ra một số giải pháp nhằm xử lý nợ xấu trong bối cảnh hiện nay.
Thực trạng xử lý nợ xấu của ngành Ngân hàng
Thời gian qua, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách về mua bán, xử lý nợ xấu như: Nghị định số 53/2013/NĐ-CP, ngày 18/05/2013 của Chính phủ về thành lập, tổ chức và hoạt động của Công ty Quản lý tài sản của các tổ chưc tín dụng (VAMC); Nghị định số 34/2015/NĐ-CP ngày 31/03/2015 sửa đổi Nghị định số 53/2015/NĐ-CP; Thông tư số 19/2013/TT-NHNN, ngày 06/09/2013 của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) về mua, bán và xử lý nợ xấu của VAMC; Quyết định số 618/QĐ-NHNN ngày 12/04/2016 về việc xây dựng và triển khai phương án mua nợ xấu theo giá trị thị trường của VAMC.
Tiếp đó, NHNN đã ban hành Thông tư số 08/2016/TT-NHNN ngày 16/06/2016 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2013/TT-NHNN ngày 06/09/2013 quy định về việc mua, bán và xử lý nợ xấu của VAMC theo cơ chế thị trường giúp tăng tính chủ động và quyền hạn cho VAMC.
Sự quyết tâm vào cuộc xử lý nợ xấu từ các cấp, các ngành, đã mang lại những kết quả tích cực. Đến hết năm 2016, tỷ lệ nợ xấu của các tổ chức tín dụng (TCTD) đã giảm xuống dưới 3%. Tuy nhiên, kết quả trên vẫn chưa như kỳ vọng và nếu bao gồm cả các khoản nợ xấu, nợ đã bán cho VAMC chưa xử lý thì tỷ lệ vẫn còn khá cao.
Báo cáo tổng quan thị trường tài chính năm 2016 của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia cho biết, dù tỷ lệ nợ xấu ghi nhận mức giảm, song nợ chờ xử lý (bán cho VAMC) và nợ xấu tiềm ẩn vẫn lớn. Tổng số nợ bán cho VAMC chưa xử lý là 224.000 tỷ đồng (chiếm 85% nợ xấu bán cho VAMC, và chiếm khoảng 4,3% tổng tín dụng).
Trong năm 2016, số dự phòng rủi ro tín dụng của hệ thống ngân hàng ước tăng khoảng 11,9% so với cuối năm 2015 (năm 2015 tăng 5,4%); dự phòng rủi ro cụ thể tăng 24,9%, cao hơn so với cùng kỳ năm 2015 (11,9%); tỷ lệ dự phòng rủi ro cụ thể/nợ xấu báo cáo là 57,2%.
Báo cáo của VAMC cho biết, tính đến đầu năm 2017, sau hơn 3 năm hoạt động, VAMC đã mua tổng cộng được 25.689 khoản nợ xấu tại 42 tổ chức tín dụng (TCTD) tại Việt Nam với tổng dư nợ gốc 284.206 tỷ đồng, giá mua nợ thanh toán bằng trái phiếu đặc biệt là 247.423 tỷ đồng.
Hầu hết khoản nợ xấu VAMC đã nhận từ các TCTD đều có tài sản bảo đảm là bất động sản hoặc tài sản hình thành từ vốn vay, kể cả bất động sản, nhà máy, xí nghiệp, khu công nghiệp, dự án, trái phiếu doanh nghiệp... Lũy kế từ năm 2013 đến nay, VAMC đã phối hợp với các TCTD thu hồi nợ được 50.165 tỷ đồng bằng nhiều hình thức bán nợ, bán tài sản bảo đảm đạt tỷ lệ 17,6% so với tổng dư nợ gốc.
Bên cạnh những chuyển biến tích cực xử lý nợ xấu còn có những hạn chế. Một số ngân hàng chưa xử lý dứt điểm các khoản nợ xấu kéo dài; việc đo lường và đánh giá rủi ro danh mục tín dụng, áp dụng chính sách khách hành chưa linh hoạt; năng lực quản trị rủi ro của một số TCTD còn hạn chế; kiểm tra kiểm soát nội bộ chưa tốt, tính tuân thủ chưa cao…; Chuẩn mực đạo đức cán bộ chưa được quan tâm dẫn đến rủi ro trong việc cho vay.
Những giải pháp xử lý nợ xấu
Ngay từ đầu năm 2017, Thống đốc NHNN đã ban hành Chỉ thị số 02/CT-NHNN về tăng cường bảo đảm an toàn hệ thống các TCTD, tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại hệ thống các TCTD, đặc biệt vấn đề xử lý nợ xấu được nhấn mạnh trong Chỉ thị này.
Trong tháng 03/2017, Thủ tướng đã ký Nghị quyết số 27/NQ-CP ban hành chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 01/11/2016 của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII và Nghị quyết số 24/2016/QH14 ngày 08/11/2016 của Quốc hội về kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020.
Về vấn đề nợ xấu, chương trình hành động của Chính phủ đặt mục tiêu phấn đấu đến năm 2020, đưa tỷ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống các TCTD, nợ xấu đã bán cho VAMC và nợ xấu đã thực hiện các biện pháp phân loại nợ xuống dưới 3%. Đáng chú ý, mức mục tiêu dưới 3% nói trên được chú giải là không bao gồm nợ xấu của các ngân hàng thương mại yếu kém, được Chính phủ phê duyệt xử lý theo phương án riêng.
Mới đây, Nghị quyết xử lý nợ xấu được Quốc hội thông qua (Nghị quyết 42/2017/QH14) đây sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng để Chính phủ có khuôn khổ tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng đẩy nhanh tiến độ xử lý nợ xấu và tài sản bảo đảm của các khoản nợ xấu.
Điểm mới trong Nghị quyết 42/2017/QH14 của Quốc hội về xử lý nợ xấu là các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán xử lý nợ xấu được bán nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu công khai, minh bạch theo giá thị trường có thể cao hơn hoặc thấp hơn dư nợ gốc của khoản nợ, đồng thời tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu được bán nợ xấu cho pháp nhân, cá nhân bao gồm cả pháp nhân, cá nhân không có chức năng kinh doanh mua bán nợ.
Việc xử lý nợ xấu trong thời gian qua có chiều hướng tích cực, từ những giải pháp điều hành, các cơ chế, chính sách đến kết quả thực hiện. Tuy nhiên, để đạt mục tiêu xử lý nợ xấu một cách triệt để, cần xem xét thực hiện các giải pháp, cụ thể sau:
Thứ nhất, xử lý điểm mấu chốt của nợ xấu là tài sản bảo đảm (TSBĐ). Nghị quyết của Quốc hội về xử lý nợ xấu sẽ giúp xử lý TSBĐ được nhanh, thuận lợi hơn. Muốn vậy, phải để bên cho vay (TCTD) có quyền thu giữ TSBĐ khi bên vay vi phạm cam kết không trả được nợ.
Sau khi thu giữ TSBĐ, TCTD được bán TSBĐ theo giá thị trường, có thể thấp hơn giá trị sổ sách; TCTD chuyển nhượng, sang tên tài sản cho người mua; được ưu tiên thanh toán cho nghĩa vụ nợ; khi có tranh chấp khởi kiện ra tòa thì được giải quyết theo thủ tục rút gọn để rút ngắn quy trình, thủ tục tố tụng tại tòa án, giúp TCTD xử lý nhanh TSBĐ.
Đây là những tiền đề cần thiết để hình thành thị trường mua - bán nợ theo thông lệ quốc tế và giúp các tổ chức quản lý tài sản, các công ty xử lý nợ, bao gồm cả Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC) có thể giải quyết nhanh chóng khối lượng nợ xấu đã mua từ các TCTD.
Thứ hai, NHNN có biện pháp quyết liệt để xác định số thực về quy mô và cơ cấu của nợ xấu hiện nay, từ số liệu này mới có thể áp dụng các giải pháp cụ thể cho từng TCTD. Đối với từng ngân hàng, cần nâng cao năng lực tài chính như: chủ sở hữu, chất lượng tài sản.
Bên cạnh việc xử lý dứt điểm nợ xấu bằng quỹ dự phòng rủi ro, phát mại tài sản, các ngân hàng có thể chuyển khoản nợ sang công ty chuyên xử lý nợ xấu. Để nâng cao chất lượng khoản nợ, ngân hàng cần tuân thủ nghiêm túc quy trình cho vay, thực hiện tốt việc kiểm tra, giám sát khoản vay đúng quy định.
Bên cạnh đó, NHNN xử lý nghiêm hành vi che giấu nợ xấu. Đồng thời, sửa đổi, bổ sung một số quy định về cách phân loại nợ, trích lập sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng; Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra...
Thứ ba, với các TCTD yếu kém, có nguy cơ mất khả năng thanh khoản, biện pháp khả thi là sáp nhập, hoặc giải thể. Nếu không sáp nhập được thì các TCTD này sẽ đặt trong điều kiện kiểm soát đặc biệt của NHNN, nhằm từng bước xử lý các tồn đọng để đi tới giải thể.
Tài liệu tham khảo:
1. Ngân hàng Nhà nước (2016), Quyết định số 618/QĐ-NHNN, ngày 12/04/2016 việc xây dựng và triển khai phương án mua nợ xấu theo giá trị thị trường của Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam;
2. Ngân hàng Nhà nước (2016), Thông tư số 08/2016/TT-NHNN, ngày 16/06/2016 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2013/TT-NHNN, ngày 06/09/2013 quy định về việc mua, bán và xử lý nợ xấu của Công ty Quản lý tài sản các TCTD;
3. Ngân hàng Nhà nước (2017), Báo cáo tại Hội nghị triển khai nhiệm vụ ngành Ngân hàng năm 2017.