Cách mạng công nghiệp 4.0 - Cơ hội và thách thức đối với ngành Tài chính
Bộ Tài chính là một trong những đơn vị dẫn đầu về ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong khối các cơ quan Chính phủ, thể hiện ở việc 04 năm liên tiếp đứng đầu về chỉ số ICT-Index.
Thực trạng ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong ngành Tài chính
Đối với công nghệ mạng xã hội - Social:
Trước đây, các giao tiếp giữa cá nhân và cá nhân, các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp chỉ đơn thuần là giao tiếp một chiều, hầu như không có sự tương tác. Khi các công nghệ Social ra đời với các ứng dụng được phổ biến rộng rãi trên toàn thế giới thì sự tương tác 2 chiều trở thành xu thế tất yếu.
Hiện nay, ngành Tài chính tiếp cận với công nghệ mạng xã hội ở 02 nội dung: (i) Cổng thông tin Bộ Tài chính đang triển khai phần mềm nghe thông tin trên các báo mạng và mạng xã hội viết về ngành Tài chính; và (ii) Đoàn thanh niên thuộc Học viện Tài chính đã sử dụng fanpage trên Facebook để tương tác với sinh viên và các đối tượng liên quan.
Đối với công nghệ di động - Mobility:
Công nghệ Mobility cho phép người dân, doanh nghiệp và các cán bộ của ngành Tài chính có thể truy cập được các dịch vụ công và các ứng dụng nghiệp vụ mọi lúc, mọi nơi bằng máy tính, các thiết bị di động (máy tính bảng, điện thoại thông minh) thông qua mạng Internet.
Công nghệ Mobility đã được nghiên cứu, ứng dụng trong ngành Tài chính tương đối sớm, thể hiện trong một số nội dung sau: Cung cấp các dịch vụ công trực tuyến trên Hệ thống Cổng Thông tin điện tử toàn ngành; Cung cấp các ứng dụng nghiệp vụ/chỉ đạo điều hành tại đơn vị như quản lý văn phòng điện tử (TaxOffice), hệ thống thông quan tự động (VNACCS/VCIS)… Tuy nhiên, các ứng dụng trên mới chỉ dừng lại ở mức hỗ trợ cho ứng dụng web trên nền tảng thiết bị di động mà chưa phát triển thành các ứng dụng di động - Mobile Apps để tăng thêm các tiện ích cho người sử dụng.
Một phần nguyên nhân của sự hạn chế này là vấn đề bảo mật thông tin trên các thiết bị di động và bảo mật kết nối từ Mobile Apps vào hệ thống xử lý tập trung chưa có các giải pháp triển khai hiệu quả.
Đối với công nghệ phân tích dữ liệu lớn - Analytics:
Về cơ bản, ngành Tài chính chưa hình thành dữ liệu lớn (Big Data). Hiện tại, Bộ Tài chính và các Tổng cục thuộc Bộ đã triển khai xây dựng một số kho cơ sở dữ liệu - CSDL (Dataware house) để lưu trữ dữ liệu cần thiết phục vụ công tác quản lý, điều hành của ngành/Tổng cục.
Một số kho CSDL của các đơn vị Tổng cục đã được thiết kế có tích hợp công nghệ Analytics. Bộ Tài chính đã có những kho CSDL về tài chính sử dụng chung cho toàn ngành như: CSDL thu, chi NSNN, CSDL người nộp thuế, CSDL mã số đơn vị có quan hệ ngân sách, CSDL văn bản pháp quy...
Đối với công nghệ điện toán đám mây - Cloud:
Từ góc độ nhà cung cấp dịch vụ thì Cloud là một môi trường với các nguồn tài nguyên được ảo hóa ở mức độ rất cao. Ngành Tài chính đã nghiên cứu, áp dụng công nghệ ảo hóa máy chủ trong hệ thống CNTT từ năm 2007 nhằm tối ưu hóa hiệu quả đầu tư phần cứng cũng như giải quyết nhanh các yêu cầu tăng trưởng hạ tầng phần cứng trong thời gian tối thiểu.
Đến nay các đơn vị đã triển khai hệ thống ảo hóa mạnh mẽ trong ngành Tài chính bao gồm: Cơ quan Bộ Tài chính (50% số máy chủ chạy trên nền tảng ảo hóa); Tổng cục Thuế (90%); Kho bạc Nhà nước (91%); Tổng cục Hải quan (83%). Các đơn vị còn lại như Học viện Tài chính, Tổng cục Dự trữ Nhà nước, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cũng đã xây dựng hệ thống ảo hóa nhưng số lượng máy tính được ảo hóa còn chưa nhiều.
Đối với công nghệ an toàn thông tin - Security:
Trong thời gian qua, Bộ Tài chính và các đơn vị Tổng cục đã thành lập phòng/bộ phận chuyên trách về an toàn thông tin, ban hành các quy định về an toàn thông tin áp dụng nội bộ và toàn ngành Tài chính, tổ chức đào tạo nâng cao nhận thức và đào tạo chuyên sâu về an toàn bảo mật cho cán bộ ngành Tài chính.
Một số giải pháp và chính sách bảo mật tiên tiến đã triển khai tại Bộ Tài chính như: Bảo mật cho nền tảng ảo hóa; Bảo mật cho thiết bị di động… Đồng thời, Bộ Tài chính đã triển khai ứng dụng chữ ký số trong các giao dịch điện tử của ngành. Còn về các quy định, chính sách bảo mật, Bộ Tài chính vẫn kế thừa các chính sách hiện tại và phát triển thêm trong giai đoạn tới.
Cơ hội và thách thức của CMCN 4.0 đối với ngành Tài chính
Cuộc CMCN 4.0 là xu hướng hiện thời trong việc tự động hóa và trao đổi dữ liệu trong công nghệ sản xuất thông qua các công nghệ như: Internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI), thực tế ảo (VR), tương tác thực tại ảo (AR)… để chuyển hóa toàn bộ thế giới thực thành thế giới số. CMCN 4.0 diễn ra trên 3 lĩnh vực chính gồm Kỹ thuật số, Vật lý và Công nghệ sinh học. Cuộc cách mạng này đang là xu thế tác động mạnh mẽ tới mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội của tất cả các quốc gia trên thế giới và sẽ làm thay đổi căn bản nền sản xuất thế giới.
Theo ông Lương Tuấn Thành, Giám đốc công nghệ CMC SI Hà Nội (Tập đoàn công nghệ CMC), cuộc CMCN 4.0 là cơ hội để cải tiến phương thức sản xuất và cung cấp dịch vụ. Còn đối với các doanh nghiệp nhà nước sẽ là thay đổi cách thức cung cấp và quản lý dịch vụ công, giúp các ngành, lĩnh vực truyền thống trở nên thông minh hơn… Tuy nhiên, cuộc CMCN 4.0 cũng mang lại không ít những khó khăn, thách thức như: Tụt hậu khoảng cách năng lực cạnh tranh giữa các quốc gia, vùng; thay đổi thị trường lao động; an ninh an toàn CNTT ngày càng trở nên trọng yếu…
Đối với ngành Tài chính, CMCN 4.0 mang lại rất nhiều cơ hội mới nhưng cũng mở ra không ít những khó khăn, thách thức khi ngành Tài chính tiếp cận cuộc cách mạng này. Trong đó, cơ hội lớn nhất mà CMCN 4.0 mang lại cho nền kinh tế nói chung và ngành Tài chính nói riêng, đó là thúc đẩy sản xuất phát triển, mở rộng thị trường toàn cầu và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bởi:
- Thông qua việc kết nối các cá nhân và cộng đồng trên toàn thế giới, CMCN 4.0 sẽ mang lại cơ hội để hợp nhất các nhu cầu của đại đa số dân cư trên thế giới dẫn đến nhu cầu tăng thêm cho các sản phẩm, dịch vụ sẵn có;
- Chi phí giao thông vận tải và thông tin liên lạc sẽ giảm xuống, hậu cần và các chuỗi cung ứng toàn cầu sẽ trở nên hiệu quả hơn; các chi phí thương mại sẽ giảm;
- Tạo ra nhiều sản phẩm và dịch vụ mới với chi phí không đáng kể phục vụ người tiêu dùng (gọi taxi, đặt vé máy bay, mua một sản phẩm… đều có thể được thực hiện từ xa).
Tuy nhiên, CMCN 4.0 cũng đặt ra không ít thách thức:
Thứ nhất, đối với thị trường lao động: Cuộc CMCN 4.0 có thể mang lại tình trạng bất bình đẳng lớn hơn, đặc biệt là nguy cơ phá vỡ thị trường lao động. Trong cuộc CMCN 4.0, tài năng, tri thức sẽ đại diện cho yếu tố quan trọng của sản xuất hơn là yếu tố vốn. Điều này sẽ làm phát sinh một thị trường việc làm ngày càng tách biệt, phân đoạn thành “kỹ năng thấp/lương thấp” và “kỹ năng cao/lương cao”, do đó sẽ dẫn đến gia tăng căng thẳng về việc làm và thu nhập trong xã hội, nhất là ở các xã hội không chuẩn bị tốt.
Thứ hai, tăng khả năng tuyên truyền những ý tưởng không tốt, cực đoan. Hơn 30% dân số thế giới hiện nay sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội như Facebook, Twitter... để kết nối, học hỏi và chia sẻ thông tin. Sự tương tác này sẽ là cơ hội cho sự hiểu biết liên văn hóa và liên kết toàn cầu. Tuy nhiên, nó cũng có thể tạo ra và tuyên truyền cho những kỳ vọng không thực tế, cũng như tạo cơ hội cho những ý tưởng cực đoan.
Thứ ba, thách thức liên quan đến vấn đề an toàn, bảo mật thông tin khi sử dụng hệ sinh thái vạn vật kết nối (IoT). Việc này sẽ làm tăng nguy cơ xâm phạm đời tư, an ninh mạng và những vấn đề liên quan đến trách nhiệm của con người trong việc sử dụng các sản phẩm kết nối không dây…
Cuộc CMCN 4.0 cũng có một số tác động cụ thể đối với ngành Tài chính như: Yêu cầu đổi mới về chính sách quản lý, công cụ quản lý trong lĩnh vực tài chính (trên nền tảng CNTT); Dữ liệu lớn (Big Data), phân tích thông minh (BI/Analytics) và trí tuệ nhân tạo (AI) sẽ là xu hướng tương lai trong ngành Tài chính; Thay đổi lớn trong nhận thức của các cấp Lãnh đạo và hành lang pháp lý nhằm đáp ứng yêu cầu minh bạch hóa, trách nhiệm giải trình (công khai số liệu tài chính ngân hàng); Thay đổi cách thức điều hành chính sách tài chính - tiền tệ để phù hợp với các loại tiền điện tử; Yêu cầu nhân sự có trình độ, chất lượng cao đáp ứng tình hình mới…
Định hướng ứng dụng CNTT ngành Tài chính trong thời gian tới
Phát biểu tại hội thảo “Cách mạng công nghiệp 4.0 và ngành Tài chính” diễn ra tại Hà Nội trong tháng 10 vừa qua, Thứ trưởng Bộ Tài chính Vũ Thị Mai cho biết, giai đoạn từ nay đến năm 2030 là giai đoạn đặc biệt quan trọng, giai đoạn thực hiện các đột phá chiến lược trong công tác xây dựng ngành Tài chính số theo định hướng phát triển Chính phủ số của Chính phủ, trong đó ngành Tài chính sẽ là đơn vị đi đầu trong các cơ quan Chính phủ trong lộ trình triển khai Chính phủ điện tử đến năm 2020 và hướng đến chuyển đổi số vào năm 2030.
Theo Thứ trưởng Vũ Thị Mai, việc ứng dụng CNTT hiện đại hóa ngành Tài chính phải hướng tới nền tài chính công khai, minh bạch và bền vững; quản lý, phát triển và cung cấp các sản phẩm tài chính công hiện đại. Theo đó, định hướng ứng dụng CNTT ngành Tài chính từ nay tới năm 2030 tập trung vào những nội dung chính sau:
Một là, tiếp tục đẩy mạnh xây dựng thành công nền Tài chính điện tử: Hoàn thành các mục tiêu về chính phủ điện tử theo yêu cầu của lộ trình triển khai chính phủ điện tử của Chính phủ. Tập trung số hóa các hồ sơ, thông tin lưu trữ tạo thành các kho dữ liệu chuyên ngành, đưa vào khai thác dữ liệu hiệu quả.
Hai là, xây dựng Cơ sở dữ liệu tài chính mở và ứng dụng các công cụ phân tích dữ liệu: Đây là định hướng lớn, ngành Tài chính cần tập trung xây dựng lộ trình thiết lập dữ liệu mở trong Ngành. Trước mắt, hoàn thành việc xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về Tài chính giai đoạn 1 (từ nay đến năm 2020 theo kế hoạch đã duyệt).
Nghiên cứu triển khai công nghệ phân tích dữ liệu lớn và phân tích đa chiều trên CSDL quốc gia về tài chính nhằm phục vụ công tác điều hành tài chính công, cung cấp thông tin mọi lúc mọi nơi, trên các phương tiện thông minh cho lãnh đạo các cấp của ngành Tài chính và Lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Từng bước xây dựng chính sách mở về dữ liệu, các quy định về bảo mật và tính riêng tư.
Ba là, tiếp tục duy trì hoàn thiện và phát triển các hệ thống thông tin nghiệp vụ cốt lõi của ngành: Duy trì và phát triển các hệ thống thông tin nghiệp vụ chính đảm bảo ổn định hoạt động tài chính chính phủ, thông thường là các ứng dụng, hệ thống cốt lõi như: Hệ thống thông tin quản lý ngân sách và kho bạc (TABMIS), VNASS/VCIS, Hệ thống quản lý thuế tập trung (TMS)... Các hệ thống này cần tiếp tục đầu tư và hiện đại hóa. Nghiên cứu và ứng dụng công nghệ Blockchain.
Bốn là, dịch vụ dữ liệu: Sử dụng nền tảng công nghệ di động và nền tảng dữ liệu mở để khuyến khích đầu tư xây dựng các dịch vụ về dữ liệu. Hỗ trợ và tập trung đầu tư cho lĩnh vực Fintech để nhanh chóng triển khai các dịch vụ dữ liệu, dịch vụ tài chính số hiện đại.
Năm là, thiết lập môi trường làm việc điện tử trong ngành: Tập trung triển khai kết nối tích hợp dữ liệu, thông tin điện tử và số hóa trong nội bộ Bộ Tài chính và với các đơn vị khác nhằm tự động hóa cao từ khâu đầu đến khâu cuối các dịch vụ công điện tử.
Sáu là, cổng giao tiếp: Thiết lập các cổng giao tiếp qua trang thông tin điện tử, Portal, các Gateway trao đổi dữ liệu tạo ra các kênh giao tiếp các đối tượng phục vụ, giao dịch, trao đổi thông tin 2 chiều và đa chiều. Sử dụng mạng xã hội trong giao tiếp, thu thập thông tin và tuyên truyền. Thiết lập hệ thống một cửa trong giao tiếp liên ngành, quốc tế, đặc biệt là trong lĩnh vực Hải quan.
Bảy là, định hướng trong việc chuẩn bị nguồn lực và chính sách: Tập trung xây dựng hệ thống cơ chế chính sách tài chính mở, chú trọng các chuẩn thỏa thuận về bảo mật phục vụ chính sách dữ liệu mở. Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực sẵn sàng cho các công nghệ mới, đáp ứng các nghiệp vụ của Ngành, nhất là đào tạo nguồn lực về phân tích dữ liệu.