Cải cách chính sách bảo hiểm xã hội hướng tới bao phủ toàn dân
Bảo đảm an sinh xã hội, thúc đẩy tiến bộ và công bằng xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực đối với sự phát triển bền vững của một đất nước, thể hiện bản chất tốt đẹp của một chế độ xã hội. Trong đó, chính sách bảo hiểm xã hội luôn được coi là trụ cột của hệ thống an sinh xã hội. Và đây cũng là một trong những nội dung quan trọng mà Hội nghị Trung ương 7 khóa XII đề cập tới.
Vài nét khái quát về quá trình hoàn thiện chính sách
Xác định tầm quan trọng của bảo hiểm xã hội (BHXH), Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề này. Những chính sách về BHXH không ngừng được bổ sung, hoàn thiện cùng với quá trình đổi mới, phát triển và hội nhập quốc tế.
Hệ thống pháp luật về BHXH ngày càng phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giúp cho BHXH đạt được nhiều kết quả tích cực, góp phần ngày càng quan trọng vào nhiệm vụ bảo đảm an sinh xã hội, phát triển bền vững đất nước.
Trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp và những năm đầu của thời kỳ đổi mới kinh tế, chính sách BHXH chỉ được thực hiện đối với cán bộ, công chức, công nhân, viên chức nhà nước; sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ Quân đội nhân dân và Công an nhân dân.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, nhất là từ năm 1995, chính sách BHXH ở nước ta có sự thay đổi rõ nét với việc Chính phủ ban hành Điều lệ Bảo hiểm xã hội áp dụng đối với công chức, công nhân viên chức nhà nước và mọi người lao động theo loại hình BHXH bắt buộc; sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ Quân đội nhân dân và Công an nhân dân.
Đối tượng tham gia BHXH được mở rộng đến người lao động trong các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế: từ năm 1998 mở rộng đến người lao động chuyên trách ở cấp xã; năm 2003 mở rộng đến người lao động có hợp đồng lao động từ 3 tháng trở lên, người lao động trong hộ sản xuất, kinh doanh cá thể, tổ hợp tác.
Năm 2006, thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật Bảo hiểm xã hội (số 71/2006/QH11, ngày 29/6/2016) có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2007. Riêng BHXH tự nguyện có hiệu lực từ ngày 01/01/2008 và Bảo hiểm thất nghiệp có hiệu lực từ ngày 01/01/2009.
Đối tượng tham gia BHXH được mở rộng đến người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên, áp dụng với tất cả các tổ chức, cá nhân có thuê mướn, sử dụng và trả công cho người lao động. Để nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác BHXH, bảo hiểm y tế (BHYT), ngày 22/11/2012 Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai đoạn 2012 - 2020”.
Ngày 20/11/2014, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Bảo hiểm xã hội (số 58/2014/QH13), có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2016, theo đó mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc với người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 1 tháng trở lên, người lao động là công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam (từ ngày 01/01/2018), người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng lao động và người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn.
Sự hoàn thiện về chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về BHXH đã giúp hệ thống chính sách BHXH, các quan hệ BHXH được thiết kế, điều chỉnh và vận hành ngày càng phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Chính sách BHXH từng bước khẳng định và phát huy vai trò trụ cột của hệ thống an sinh xã hội, là sự bảo đảm thay thế cho người lao động giải quyết những rủi ro trong cuộc sống khi ốm đau, bệnh tật, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất việc làm cũng như khi đến tuổi già không còn khả năng lao động.
Quỹ Bảo hiểm xã hội đã trở thành quỹ an sinh lớn nhất, hoạt động theo nguyên tắc “đóng - hưởng”, chia sẻ giữa các thế hệ và giữa những người tham gia BHXH.
Hiện nay, hệ thống chính sách BHXH đã bao quát hầu hết các chế độ BHXH theo thông lệ quốc tế. Bảo hiểm xã hội đang thực hiện 8/9 chế độ BHXH theo thông lệ của các nước và Công ước số 102 (năm 1952) của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) về những quy phạm an sinh xã hội tối thiểu.
Số người tham gia BHXH tăng hơn 2,3 lần kể từ ngày 1/1/2007 (thời điểm Luật BHXH số 71/2006/QH11 có hiệu lực), đến ngày 31/12/2017 là gần 13,9 triệu người (trong đó, tham gia BHXH bắt buộc là 13,6 triệu người, tham gia BHXH tự nguyện là 0,3 triệu người), số người tham gia bảo hiểm tự nguyện là 11,7 triệu người. Cùng với việc tăng số người tham gia, thì số lượng người hưởng chế độ BHXH cũng không ngừng tăng lên.
Năm 2017, BHXH đang thực hiện chế độ, chính sách cho trên 3 triệu người hưởng chế độ hưu trí, BHXH hằng tháng; trong năm có 9,1 triệu lượt người hưởng chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức phục hồi sức khỏe; 0,7 triệu lượt người hưởng chế độ trợ cấp thất nghiệp; hơn 56 nghìn người hưởng chế độ tai nạn, bệnh nghề nghiệp hằng tháng.
Tổng số thu - chi BHXH tăng nhanh qua các năm, số thu BHXH năm 2017 là 198.658 tỷ đồng, gấp hơn 12 lần so với thời điểm ngày 01/01/2007 và số chi BHXH, bảo hiểm thất nghiệp năm 2017 là trên 180.000 tỷ đồng.
Mô hình tổ chức hệ thống BHXH cũng được đổi mới hoàn thiện và ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của công tác BHXH. Việc tách cơ quan BHXH ra khỏi hệ thống cơ quan quản lý nhà nước đã phát huy được vai trò và hiệu quả trong từng khâu thiết kế, xây dựng, hoạch định chính sách đến tổ chức thực hiện, thu chi và quản lý quỹ BHXH.
Mô hình tổ chức hệ thống BHXH với việc hình thành các đại lý BHXH đã từng bước tiếp cận được xu hướng phát triển BHXH trên thế giới, cùng với việc đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin giúp người dân và doanh nghiệp tiếp cận, tham gia và thụ hưởng chính sách BHXH ngày càng dễ dàng và thuận tiện.
Bên cạnh những kết quả đạt được, BHXH vẫn còn bộc lộ một số hạn chế, yếu kém nhất định:
- Quy mô tham gia BHXH còn thấp so với lực lượng lao động trong xã hội. Tính đến hết năm 2017 mới chỉ có gần 13,9 triệu người tham gia BHXH, chiếm khoảng 29% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia BHXH, vẫn còn trên 34 triệu người trong độ tuổi lao động (khoảng 70%) chưa tham gia BHXH.
Số người tham gia BHXH tự nguyện mới chỉ đạt gần 0,3 triệu người (chỉ chiếm khoảng 0,6% lực lượng lao động trong độ tuổi). Theo dự báo của ILO, nếu không có đột phá trong cải cách, hỗ trợ tích cực từ ngân sách nhà nước thì đến năm 2030 sẽ có trên 38,7 triệu người trong độ tuổi lao động (chiếm khoảng 62%) không tham gia BHXH.
- Chế độ hưu trí của BHXH còn nhiều điểm chưa phù hợp. Các nguyên tắc công bằng, đóng - hưởng, chia sẻ và bảo đảm bền vững tài chính chưa được thực hiện hài hòa, chưa chú ý thỏa đáng nguyên tắc chia sẻ, cách tính lương hưu giữa người lao động trong khu vực nhà nước và người lao động trong khu vực tư nhân chưa thật sự công bằng, hợp lý.
Quy định điều kiện hưởng lương hưu chặt chẽ trong khi điều kiện hưởng BHXH một lần khá dễ dàng; số người hưởng chế độ hưu trí tăng nhanh, nhưng số người mới tham gia BHXH lại tăng chậm, cùng với tuổi thọ của người dân tăng lên tạo áp lực cho khả năng cân đối của quỹ BHXH.
- Tình trạng trốn đóng, nợ đọng BHXH còn khá phổ biến. Năm 2017, cả nước đang có hơn 600.000 doanh nghiệp đăng ký hoạt động nhưng chỉ có gần 230.000 doanh nghiệp (chiếm khoảng 38% số doanh nghiệp đăng ký hoạt động) đóng BHXH. Số nợ BHXH có tính lãi đến ngày 31/12/2017 gần 6.000 tỷ đồng.
- Cơ chế quản lý, tổ chức bộ máy nhân sự thực hiện BHXH chưa thực sự hợp lý, tinh gọn; việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý điều hành hoạt động BHXH còn chậm. Công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về BHXH chưa tạo được niềm tin vững chắc để thu hút người lao động chủ động, tích cực tham gia hệ thống BHXH.
Một số giải pháp cơ bản nhằm phủ rộng BHXH tới mọi người dân
Để BHXH thực sự trở thành trụ cột của hệ thống an sinh xã hội với độ bao phủ rộng nhất, hướng tới mục tiêu tất cả người dân đều tham gia và được thụ hưởng chế độ BHXH, góp phần quan trọng thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, đời sống nhân dân và phát triển bền vững đất nước, việc xây dựng và thực hiện chính sách, pháp luật về BHXH cần lưu ý một số vấn đề sau:
Thứ nhất, xây dựng, phát triển hệ thống chính sách BHXH linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại phù hợp với xu hướng hội nhập quốc tế, hướng tới bao phủ toàn dân theo lộ trình phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội.
Tạo điều kiện tối đa, đơn giản thủ tục để thu hút người dân có thể tham gia loại hình BHXH tự nguyện, có chính sách hỗ trợ người nghèo, người có thu nhập thấp tham gia BHXH tự nguyện.
Đồng thời, mở rộng tối đa các diện tham gia BHXH bắt buộc đối với tất cả những người có phát sinh quan hệ lao động, có thực hiện hoặc hợp tác thực hiện hoạt động kinh doanh, dịch vụ... có phát sinh thu nhập mà Nhà nước có thể quản lý được thông qua các cơ quan thuế, cơ quan đăng ký kinh doanh.
Hướng tới bao phủ toàn dân tham gia BHXH, trong đó tạo lập được một tầng BHXH cơ bản bao phủ hết các đối tượng là người già, người không còn khả năng lao động, không nơi nương tựa trên cơ sở chia sẻ của các tầng BHXH khác và hỗ trợ của Nhà nước.
Cùng với việc hướng tới tạo lập tầng BHXH cơ bản, bao phủ rộng rãi dần bỏ hẳn chế độ hưởng BHXH một lần (trừ một số trường hợp đặc biệt như người nước ngoài làm việc tại Việt Nam...), lấy BHXH cơ bản làm gốc và tính thêm mức thụ hưởng căn cứ vào thời gian và mức đóng BHXH.
Thứ hai, bảo đảm và kết hợp hài hòa các nguyên tắc đóng - hưởng; công bằng, bình đẳng; chia sẻ và bền vững trong BHXH.
Thực hiện nguyên tắc đóng - hưởng trong BHXH, bảo đảm người có mức đóng cao hơn, thời gian đóng nhiều hơn sẽ được thụ hưởng cao hơn người có mức đóng thấp và thời gian đóng ngắn, bảo đảm tính công bằng, bình đẳng, không phân biệt thành phần, đối tượng. Tuy nhiên, với tính tương trợ xã hội, cần có sự hỗ trợ, chia sẻ mang tính cộng đồng xã hội trong BHXH.
Việc chia sẻ cần thể hiện giữa những người đóng BHXH cùng thế hệ với nhau, chia sẻ giữa người đang hưởng chế độ BHXH còn phát sinh thu nhập với người không còn phát sinh thu nhập và giữa những thế hệ đóng BHXH với nhau. Giảm thiểu sự phân hóa cao từ thu nhập BHXH của những người nghỉ hưu cùng thế hệ, đồng thời cũng bảo đảm tính bền vững của quỹ BHXH cho tương lai.
Thứ ba, sửa đổi hệ thống luật BHXH theo hướng mở rộng đối tượng tham gia, thiết kế BHXH đa tầng. Gắn việc đóng BHXH bắt buộc với các quyền lợi và nghĩa vụ khác của doanh nghiệp và người sử dụng lao động, như hưởng các cơ chế, chính sách ưu đãi về vay vốn, thuế,...
Phối hợp quản lý giữa các cơ quan nhà nước với BHXH trong việc giám sát thực hiện nghĩa vụ đóng BHXH của doanh nghiệp, người sử dụng lao động. Xử lý nghiêm, dứt điểm, kịp thời tình trạng nợ, trốn đóng BHXH.
Thứ tư, xây dựng bộ máy tổ chức thực hiện BHXH tinh gọn, hiệu quả phù hợp với xu thế phát triển và hội nhập quốc tế.
Tạo lập hệ thống tổ chức thực hiện chính sách BHXH chuyên nghiệp, hiện đại; đơn giản hóa các thủ tục hành chính để người dân, doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận, tham gia đóng góp và thụ hưởng các chế độ BHXH. Xử lý nghiêm mọi biểu hiện, hành vi gây phiền hà, khó khăn cho người dân, doanh nghiệp trong quá trình tham gia, thụ hưởng BHXH.
Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, xử lý, tác nghiệp về BHXH; tạo lập cơ sở dữ liệu chung, thống nhất về BHXH, hướng tới thống nhất bộ mã số BHXH cá nhân với mã số căn cước của từng công dân (đề xuất xây dựng mã số căn cước công dân thống nhất, làm mã số cơ bản hình thành ngay từ khi công dân sinh ra, gắn với mã số thuế, mã số BHXH, mã số tài khoản ngân hàng...).
Thứ năm, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong hoạch định chính sách và chỉ đạo thực hiện chính sách BHXH. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân trong giám sát, phản biện xã hội về chính sách BHXH. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận thức của người dân đối với công tác BHXH.