Cơ hội và rào cản trong hoạt động đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp nhỏ và vừa

TS. Trần Quang Phú - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Đổi mới sáng tạo là quá trình doanh nghiệp tạo ra sản phẩm, dịch vụ, quy trình hoặc hệ thống quản lý mới để đáp ứng với sự thay đổi của điều kiện thị trường, công nghệ hoặc mô hình cạnh tranh. Năng lực của doanh nghiệp nhỏ và vừa được cải thiện nhờ đổi mới sáng tạo, cho phép cạnh tranh hiệu quả hơn trên thị trường. Hiện nay, doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam có nhiều cơ hội, nhưng cũng gặp rất nhiều khó khăn khi thực hiện đổi mới sáng tạo. Bài viết tập trung phân tích các cơ hội và rào cản của hoạt động đổi mới sáng tạo tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, từ đó đưa ra giải pháp để thúc đẩy quá trình này.

Đặt vấn đề

Trong bối cảnh công nghệ, tri thức và đổi mới sáng tạo là những thành phần ngày càng quan trọng trong việc thiết lập khả năng cạnh tranh và thành công kinh tế của một quốc gia, các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) chính là đầu mối trong quá trình phát triển.

Theo Tổng cục Thống kê (2023), các DNNVV hiện chiếm khoảng trên 97% trong tổng số DN cả nước, giải quyết việc làm khoảng 36% tổng số lao động làm việc trong các DN, thu hút khoảng 32% tổng nguồn vốn, tạo ra doanh thu thuần chiếm khoảng 26% tổng doanh thu thuần của khối DN. Để từng bước nâng cao giá trị doanh thu từ đổi mới sáng tạo, cần đẩy mạnh hơn nữa việc thực hiện chính sách ưu đãi, khuyến khích hơn nữa hoạt động đổi mới sáng tạo trong DNNVV.

Trên sở khái quát một số vấn đề lý luận về đổi mới sáng tạo của DNNVV cũng như cơ hội và rào cản trong hoạt động đổi mới sáng tạo của DNNVV tại Việt Nam, tác giả đề xuất giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động đổi mới sáng tạo trong DNNVV trong thời gian tới.

Lý luận về đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp nhỏ và vừa

Khái niệm đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp nhỏ và vừa

Đổi mới là quá trình một DN phát triển sản phẩm, dịch vụ, quy trình hoặc hệ thống quản lý mới để đáp ứng các yêu cầu do thay đổi môi trường kinh doanh, công nghệ hoặc mô hình cạnh tranh. Đổi mới bao gồm nhiều giai đoạn, từ nghiên cứu, lập kế hoạch đến tìm giải pháp kỹ thuật và thương mại hóa. Khác với sáng chế, đổi mới sáng tạo chỉ được công nhận khi DNNVV biến sáng chế thành sản phẩm, bán ra thị trường và thu được lợi nhuận.

Luật Khoa học và Công nghệ của Việt Nam nhấn mạnh đổi mới sáng tạo là việc tạo ra và ứng dụng thành tựu, giải pháp kỹ thuật, công nghệ, giải pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao năng suất và số lượng và giá trị gia tăng của sản phẩm, hàng hóa. Vì vậy, vai trò hỗ trợ của Nhà nước trong đổi mới sáng tạo là cần thiết. Ở các nước phát triển, Chính phủ hỗ trợ đổi mới sáng tạo bằng nhiều cách, trong đó bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ và hỗ trợ nghiên cứu tại các trường đại học là phổ biến.

Nội dung hoạt động đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp nhỏ và vừa

- Khi có sự thay đổi, điều chỉnh về chức năng của sản phẩm hàng hóa: Khi đó, sản phẩm được bổ sung thêm những chức năng mới so với các sản phẩm đang có trên thị trường. Sự đổi mới này liên quan đến quy trình công nghệ từ thiết kế, phân phối đến thương mại hóa. DNNVV đổi mới thông qua công nghệ và khách hàng, tập trung xây dựng kiến thức và năng lực mà đối thủ cạnh tranh không có, từ đó giúp DN duy trì vị trí tiên phong trên thị trường. Đổi mới triệt để là đổi mới về công nghệ, khách hàng và khả năng thích ứng với thị trường.

- Nâng cấp khả năng công nghệ tạo ra các rào cản gia nhập thị trường đối với các đối thủ tiềm năng: Điều này giúp DN duy trì vị thế độc quyền tương đối trên thị trường. Đổi mới là chìa khóa cho sự linh hoạt và tính tiên phong của sản phẩm mới. Nguồn gốc của đổi mới DN đến từ bên trong hoặc bên ngoài DN, nhưng đều nhằm mục đích cạnh tranh tốt hơn trên thị trường. DNNVV đổi mới trên 03 yếu tố cạnh tranh của sản phẩm gồm: chất lượng, giá cả và dịch vụ. Bắt đầu từ ý tưởng và được triển khai thành công trong hoạt động kinh doanh thương mại. Vì vậy, khi có nhu cầu đổi mới, DN tìm hiểu môi trường kinh doanh, đối thủ cạnh tranh và nghiên cứu các nguồn lực sẵn có như nhân lực, công nghệ, tài chính.

- Có sự đầu tư cho nguồn nhân lực, nghiên cứu và phát triển (R&D): Điều này quyết định liệu DN có phải là người dẫn đầu thị trường cho sản phẩm đó hay không. Đầu tư cho R&D là khoản đầu tư rủi ro và khó kiểm soát hiệu quả hơn so với đầu tư thông thường do DN khó tính toán chi phí và hiệu quả. Vì vậy, hiệu quả đổi mới sáng tạo cần được đánh giá thông qua đánh giá doanh thu từ sản phẩm đổi mới sáng tạo trên thị trường. Để có sản phẩm mới trên thị trường, DN cần đầu tư vốn thường xuyên thay vì vốn lưu động, để tránh mất cân đối tài chính trước rủi ro đổi mới. Hiệu quả của đổi mới cũng có thể được đo lường bằng số lượng phát minh sáng chế có được thông qua đầu tư R&D.

Cơ hội và rào cản trong hoạt động đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp nhỏ và vừa

Cơ hội

- Nền tảng pháp lý và định hướng đầy đủ: Hàng loạt các chính sách quan trọng hỗ trợ cho hoạt động đổi mới sáng tạo được ban hành đã tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của các DNNVV tại Việt Nam. Cụ thể, sau khi Quyết định số 844/QĐ-TTg ngày 18/05/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến 2025”, nhiều chính sách tiếp tục được ban hành để chỉ đạo và thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo trong DNNVV. Có thể kể ra những chính sách quan trọng như: Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu nước ngoài đến năm 2030, Nghị quyết số 52-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Luật Hỗ trợ DNNVV năm 2017, Luật Đầu tư năm 2020, Nghị định số 38/2018/NĐ-CP ngày 11/3/2018 của Chính phủ quy định chi tiết về đầu tư cho DNNVV khởi nghiệp sáng tạo, Nghị định số 80/2021/NĐ-CP ngày 26/8/2021 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Hỗ trợ DNNVV, Quyết định số 2889/QĐ-TTg ngày 31/12/2020 của Thủ tướng Chính phủ về Chiến lược quốc gia về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Chính phủ phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.

Với nền tảng pháp lý và định hướng đầy đủ như vậy, hoạt động khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tại Việt Nam bắt đầu có những thay đổi đáng kể. Năm 2021, đầu tư về lĩnh vực khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tại Việt Nam đạt 1,4 tỷ USD, một kỷ lục mới trong bối cảnh khó khăn và là dấu hiệu tích cực trong việc huy động, thu hút vốn đầu tư cho khởi nghiệp đổi mới sáng tạo ở Việt Nam. Đà khởi nghiệp tiếp tục diễn ra mạnh mẽ, năm 2022, cả nước có 208,3 nghìn DN đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động, tăng 30,3% so với năm trước; bình quân một tháng có 17,4 nghìn DN thành lập mới và quay trở lại hoạt động.

- Hệ sinh thái đổi mới sáng tạo phát triển nhanh: Việt Nam có những bước tiến đáng kể trong việc nâng cao các chỉ số đổi mới sáng tạo, nhanh chóng bắt kịp với các nước trong khu vực và thế giới. Có thể kể tới như cơ sở hạ tầng thanh toán trực tuyến ngày càng hoàn thiện và mở rộng nhanh chóng đáp ứng được nhu cầu của người dân từ thành thị tới nông thôn. Tỷ lệ người dùng các sản phẩm công nghệ tăng nhanh do hệ thống giáo dục chú trọng các môn học STEM.

- Phong trào khởi nghiệp gắn với đổi mới sáng tạo diễn ra mạnh mẽ: Đặc biệt, xu hướng khởi nghiệp nở rộ trong các lĩnh vực gắn tới tài chính và thương mại, công nghiệp hỗ trợ. Theo Báo cáo đổi mới sáng tạo và đầu tư công nghệ Việt Nam năm 2023 của Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), nền kinh tế số Việt Nam dự báo có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trong khu vực ASEAN ở mức 3,1% trong giai đoạn 2022-2025. Trong một báo cáo mới đây của Ngân hàng Thế giới (WB), trong 3 năm qua, Việt Nam đã tạo ra 1,6 triệu việc làm mới trong ngành công nghiệp hỗ trợ. Tốc độ tăng việc làm tương đương với tốc độ tăng sản lượng. Trong số các ngành chế tạo và chế biến, việc làm chủ yếu được tạo ra trong các ngành định hướng xuất khẩu, bao gồm dệt may và điện tử. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, các ngành công nghiệp nói trên đã thu hút lao động nông nghiệp, góp phần di chuyển ròng lao động ra khỏi nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu, sắp xếp lại lao động sang các hoạt động có năng suất cao hơn. Riêng lĩnh vực sản xuất công nghiệp hỗ trợ, hiện cả nước có khoảng 5.000 DN nhưng có đến gần 90% là các DNNVV. 

Rào cản

Bên cạnh những tiềm năng trên, đổi mới sáng tạo trong DNNVV Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế:

- Năng lực đổi mới sáng tạo cũng như mức độ sẵn sàng cho cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 của Việt Nam còn thấp. Năm 2022, Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) của Việt Nam xếp thứ 48/132. Tuy nhiên, trong bảng xếp hạng toàn cầu về hoạt động đổi mới sáng tạo, Việt Nam vẫn kém xa nhóm dẫn đầu gồm: Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc, Malaysia và thấp hơn đáng kể so với Trung Quốc, Indonesia, Ấn Độ, Philippines, Thái Lan. Do đó, còn nhiều việc phải làm để cải thiện chỉ số này, như: cải thiện các nhóm chỉ tiêu về môi trường kinh doanh, thị trường vốn và đầu tư, ứng dụng công nghệ.

- Số lượng DNNVV khởi nghiệp đổi mới sáng tạo còn ít: Năng lực của các DN Việt Nam trong việc đưa ra những ý tưởng mới, dù là sản phẩm mới để đáp ứng nhu cầu thị trường hay quy trình sản xuất mới để tăng khả năng cạnh tranh là rất thấp. Mặc dù mức độ hỗ trợ của Chính phủ Việt Nam trong việc thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo cao hơn so với Thái Lan và Malaysia nhưng chi tiêu của DNNVV cho R&D ở Việt Nam còn thấp. DNNVV chưa thực sự là trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo, chưa có nhiều sản phẩm công nghệ được thương mại hóa. Hiện nay, hàng hóa Việt Nam tiêu thụ trong nước hay xuất khẩu vẫn khó cạnh tranh bởi những đặc điểm khác biệt mà chủ yếu là về giá. Số lượng DN thành lập mới tương đối lớn nhưng chỉ có 23,9% được thành lập trong lĩnh vực khoa học và công nghệ và rất ít trong số đó được coi là DN khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Một bộ phận lớn DNNVV Việt Nam có ý thức và nỗ lực đổi mới, nhưng chưa có sự hợp tác và hỗ trợ cần thiết từ các trường đại học và viện nghiên cứu.

- Hoạt động đổi mới của các DNNVV tại Việt Nam thiếu sự hỗ trợ tài chính từ khu vực tư nhân: Hiện nay, nguồn tài chính dành cho hoạt động đổi mới sáng tạo chủ yếu đến từ các tập đoàn tư nhân lớn còn hạn chế. Điều này thể hiện rõ sự đánh giá chưa đúng mức đối với việc chưa quan tâm hoạt động động đầu tư có chiều sâu bài bản, mang tính lâu dài của các tập đoàn tư nhân tại Việt Nam. Hiện mới chỉ có Tập đoàn Vingroup có chính sách đầu tư có chiều sâu vào lĩnh vực đổi mới sáng tạo để tạo ra nguồn động lực mới trong dài hạn cho sự phát triển bền vững.

Năm 2022, Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) của Việt Nam xếp thứ 48/132. Tuy nhiên, trong bảng xếp hạng toàn cầu về hoạt động đổi mới sáng tạo, Việt Nam vẫn kém xa nhóm dẫn đầu gồm Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc, Malaysia và thấp hơn đáng kể so với Trung Quốc, Indonesia, Ấn Độ, Philippines, Thái Lan. Do đó, còn nhiều việc phải làm để cải thiện chỉ số này, như: cải thiện các nhóm chỉ tiêu về môi trường kinh doanh, thị trường vốn và đầu tư, ứng dụng công nghệ.

Một số đề xuất giải pháp

Nhằm thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo tại DNNVV Việt Nam trong thời gian tới, tác giả kiến nghị một số mội dung trọng tâm sau:

Một là, tại Việt Nam có nhiều chương trình hỗ trợ đổi mới sáng tạo trong khoa học công nghệ như Chương trình hỗ trợ đổi mới sáng tạo Việt Nam, chương trình hỗ trợ nghiên cứu chuỗi giá trị lương thực vùng Đồng bằng sông Hồng, Chương trình thúc đẩy đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu khoa học và công nghệ, Dự án Đổi mới sáng tạo hướng tới người thu nhập thấp (VIIP) và Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia (NIC), đã tài trợ khoảng 190 triệu USD cho các công ty đổi mới công nghệ tại Việt Nam. Vì vậy, đây là thời điểm thích hợp để phát triển một hệ thống giúp các DNNVV cải tiến công nghệ, đặc biệt là các công ty khởi nghiệp để hưởng lợi từ cải tiến công nghệ và vốn, đồng thời kết nối các bên liên quan trong cùng một khu vực, tạo ra sức mạnh tổng hợp để hỗ trợ các DNNVV.

Hai là, đẩy mạnh công nghiệp hỗ trợ: Đầu tư nước ngoài vẫn được kỳ vọng là một trong những động lực chính của chuyển giao công nghệ, năng lực yếu kém của công nghiệp hỗ trợ khiến DNNVV Việt Nam khó tham gia vào chuỗi cung ứng (liên kết dọc) với nhà đầu tư nước ngoài. Sự tham gia của DN trong nước vào chuỗi giá trị toàn cầu còn hạn chế, hiệu quả tiếp thị thấp và mức độ ủy quyền trong DN thấp. Tỷ lệ đầu tư cho R&D của DNNVV nông nghiệp còn quá nhỏ (chỉ dành 1,6% tổng doanh thu cho R&D, quá thấp so với các nước ASEAN). Các ngành chi nhiều nhất cho đổi mới công nghệ và R&D đều thuộc nhóm tăng trưởng thấp (hóa dược, thiết bị điện, máy móc chuyên dụng hay chế biến cà phê). Trong khi những ngành có mức tăng trưởng cao (40% trở lên) là những ngành có chi phí R&D và đổi mới công nghệ thấp nhất hoặc bằng không (chế biến thực phẩm, điện tử, dệt may).

Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy, các ngành công nghiệp hỗ trợ đang hoạt động kém hiệu quả. Việt Nam là quốc gia hấp dẫn dòng vốn FDI, đặc biệt trong ngành điện tử. Những năm gần đây, hàng chục tỷ USD đầu tư từ các tập đoàn đa quốc gia như Samsung, Intel, LG, Microsoft vào nền kinh tế nhưng rất ít DNNVV trong nước có khả năng tiếp nhận công nghệ mới thông qua liên kết với DN FDI.

Ba là, đẩy mạnh phong trào khởi nghiệp, chú trọng sáng tạo với ý tưởng mới, vì vậy các biện pháp chính sách cần tập trung khuyến khích hoạt động R&D, đầu tư để nâng cao trình độ và khả năng ứng dụng khoa học công nghệ trong các DN. Đây là một cách hiệu quả để củng cố sự đổi mới và thúc đẩy tăng trưởng nhanh chóng dựa trên những ý tưởng và sáng kiến mới, do bản chất của DN khởi nghiệp là hướng tới tốc độ tăng trưởng nhanh. Hiện nay, trong bối cảnh ứng dụng các thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư ngày càng mạnh mẽ, ý tưởng tốt gắn liền với điều kiện thuận lợi, các startup có thể nhanh chóng chen chân và vượt lên nhờ tốc độ tăng trưởng nhanh đi kèm với tính sáng tạo cao để có thể trở thành DNNVV lớn, vươn tầm toàn cầu. Với thực tế như vậy, các giải pháp chính sách ở tầm vĩ mô là cần nhưng chưa đủ. Chính sách cần gắn với các giải pháp cụ thể ở tầm vi mô, hướng đến các nhóm dân cư cụ thể để các cá nhân tự do đưa ra các ý tưởng sáng tạo. Đồng thời, xã hội phải có cái nhìn cởi mở hơn để khuyến khích những ý tưởng sáng tạo đó, bất kể chúng có trở thành hiện thực hay không.

Bốn là, đẩy mạnh liên kết giữa các trường đại học, cơ quan nghiên cứu và DN. Để nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo của quốc gia, cần tăng cường liên kết giữa DNNVV với các trường đại học, viện nghiên cứu theo định hướng lấy DN làm trung tâm; Các trường đại học là chủ thể nghiên cứu, coi nghiên cứu là nhiệm vụ bắt buộc. Chính phủ cần quan tâm đầu tư xây dựng các phòng thí nghiệm trọng điểm, hình thành các trường đại học nghiên cứu mạnh. Sự đổi mới chủ yếu phải đến từ các nguồn lực thị trường tự do. Đầu tư của Nhà nước chỉ nên dành cho các giải pháp đổi mới sáng tạo trong khu vực công, hoặc làm nền tảng ban đầu để định hướng cho khu vực tư nhân tham gia. Đổi mới công nghệ chỉ là một phần của đổi mới và nhiều DN có thể tăng đáng kể hiệu quả sản xuất kinh doanh nhờ những đổi mới nhỏ. Các quốc gia không thể chỉ tập trung nguồn lực đổi mới công nghệ cho công nghệ cao. Công nghệ bậc thấp cũng vô cùng quan trọng vì giúp thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh quy mô lớn, tạo nền tảng cần thiết trước khi phát triển và ứng dụng công nghệ cao hơn.

Năm là, thúc đẩy văn hóa đổi mới tại các DN. Sự sáng tạo xuất hiện ở mọi thành viên trong DN. Vai trò của người lãnh đạo là kích hoạt và tạo ra môi trường nuôi dưỡng sự sáng tạo đó. Đổi mới sáng tạo có thể đến từ những hành động nhỏ, từ thay đổi cách gặp gỡ, cách bán hàng... DNNVV nên kết nối với hệ sinh thái khởi nghiệp, kết nối nguồn lực từ nhà đầu tư, cố vấn, quỹ đầu tư..., đồng thời thay đổi lối mòn tư duy để mở ra suy nghĩ. Bản thân DNNVV muốn phát triển, muốn tồn tại thì không thể sáng tạo. Vì vậy, DNNVV phải tạo ra một môi trường làm việc tốt, khuyến khích mọi nhân viên có tư duy đổi mới. Theo đó, lãnh đạo DN phải luôn quan tâm đến nhân viên cấp dưới để khuyến khích nhân viên cống hiến.

Tài liệu tham khảo:

  1. Chesbrough, CTNH (2010), Đổi mới mô hình kinh doanh: Cơ hội và rào cản. Lập kế hoạch tầm xa, 43(2/3), 354–363;
  2. Gambardella, A., & McGahan, AM (2010), Đổi mới mô hình kinh doanh: công nghệ mục đích chung và ý nghĩa của chúng đối với cấu trúc ngành. Lập kế hoạch tầm xa, 43(2/3), 262–271.
  3. Lee, S., Olson, D., & Trimi, S. (2012), Đồng đổi mới: hội tụ, hợp tác và đồng sáng tạo cho các giá trị của tổ chức. Quyết định quản lý, 50(5), 817–831;
  4. PX Nhã, L. Quân (2013), “Nghiên cứu thực trạng đổi mới sáng tạo ở các doanh nghiệp Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Kinh tế và Kinh doanh, Tập 29, Số 4, 1-11;
  5. PX Nhã, Lê Quân (2013), “Lãnh đạo trong thời kỳ suy thoái: Nghiên cứu thực nghiệm về lãnh đạo DN tư nhân vừa và nhỏ ở Việt Nam”, Tạp chí Đại học Quốc gia Hà Nội, Tập 21, Số 4.
 
Bài đăng trên Tạp chí Tài chính số kỳ 2 tháng 7/2023