Các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới:
Cơ hội và thách thức của nền kinh tế Việt Nam
Sau gần 10 năm gia nhập WTO mà chúng ta có thể coi là cột mốc đánh dấu cho sự khởi đầu làn sóng hội nhập lần thứ nhất của Việt Nam, hiện nay, việc Chính phủ đang đàm phán một loạt Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đang được kỳ vọng sẽ tạo ra làn sóng hội nhập lần thứ 2 mạnh mẽ hơn đối với Việt Nam.
Có những kỳ vọng về các lợi ích vô cùng hấp dẫn của các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Và đó là điều lý giải cho thái độ rất lạc quan của đa số DN VN với tương lai của các FTA này.
Theo điều tra gần 10.000 DN của VCCI thực hiện năm 2014 thì với TPP có tới 66% DN VN ủng hộ và tin vào những lợi ích mà Hiệp định này đem lại cho họ (trong khi tỷ lệ này ở các DN FDI khiêm tốn hơn, chưa tới 30%). Tuy nhiên, chúng ta cũng cần lưu ý rằng sự lạc quan này của các DN VN phần nhiều mang tính suy đoán, bởi hầu như không ai có thể biết được chắc chắn về các nội dung cam kết. Tuy vậy, dù thế nào, nền kinh tế và DN VN cũng cần có sự chuẩn bị tốt nhất để sẵn sàng với những cơ hội và thách thức hội nhập lớn từ những Hiệp định thương mại tự do (FTA) sâu rộng nhất từ trước tới nay của VN.
Lợi ích kỳ vọng và thách thức được báo trước
Thứ nhất, từ góc độ xuất khẩu, các FTA thế hệ mới với mục tiêu xóa bỏ phần lớn thuế quan cho hàng hóa giữa VN và các nước đối tác, trong đó có những đối tác đặc biệt lớn như Hoa Kỳ hay EU, sẽ là con đường không thể tốt hơn cho hàng hóa xuất khẩu của VN tăng sức cạnh tranh về giá khi tiếp cận thị trường các nước đối tác TPP. Trong so sánh với WTO (trong đó các nước chỉ cam kết “cắt giảm thuế” chứ không phải “loại bỏ thuế”, và chỉ với “một số” dòng thuế chứ không phải là “hầu hết” các dòng thuế), các FTA mang lại những lợi thế hơn hẳn về thuế quan ưu đãi.
Tuy vậy, thách thức cũng nằm trước hết ở chính lợi thế thuế quan này. Trong các FTA này, ưu đãi thuế quan chỉ dành cho các sản phẩm xuất khẩu có xuất xứ nội khối phù hợp. Trong bối cảnh công nghiệp hỗ trợ của chúng ta chưa phát triển, phần lớn nguyên liệu sản xuất (chiếm tỷ lệ khá cao trong trị giá sản phẩm) của nhiều ngành xuất khẩu của chúng ta đang được nhập từ Trung Quốc, các nước ASEAN, Hàn Quốc… nếu các FTA có yêu cầu cao về tỷ lệ xuất xứ nội khối thì đây rõ ràng là một đòi hỏi không dễ dàng đối với DN VN.
Thêm nữa, có lẽ không DN xuất khẩu nào không biết rằng thuế quan chỉ là một phần của câu chuyện xuất khẩu. Thuế giảm hoặc được loại bỏ hoàn toàn nhưng các hàng rào kỹ thuật (TBT) và hệ thống vệ sinh và kiểm dịch thực vật (SPS) khắt khe, tốn kém thời gian tiền của, với nguy cơ hàng hóa bị trả về nếu không đáp ứng được…có thể là những rào cản khiến hàng hóa VN thậm chí là không có đường vào thị trường các nước đối tác FTA. Nguy cơ này lớn hơn cùng với lo ngại về khả năng khi thuế quan được dỡ bỏ theo các cam kết tự do hóa, các nước nhập khẩu sẽ tăng cường những rào cản thay thế thuộc dạng này và đang có những tín hiệu cho thấy nguy cơ này đang hiện hữu.
Thứ hai, từ góc độ mở cửa thị trường VN cho hàng hóa, dịch vụ đến từ các nước đối tác FTA (thông qua việc cắt giảm thuế quan và các điều kiện khác), DN VN có lý do để kỳ vọng về một môi trường kinh doanh cạnh tranh hơn, với hàng hóa và dịch vụ giá rẻ hơn chất lượng tốt hơn cho người tiêu dùng, với công nghệ, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu phong phú hơn và giá thấp hơn… Nhưng VN sẽ phải cam kết mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ của mình rộng hơn, thông qua việc loại bỏ phần lớn thuế quan đối với hàng hóa từ các nước đối tác FTA. Hơn nữa, chúng ta thực sự không còn khái niệm “sân nhà”, thách thức đối với DN VN chính là áp lực cạnh tranh với hàng hóa giá rẻ, dịch vụ chất lượng tốt từ các nước TPP trên chính thị trường nội địa.
Ngoài ra, sản xuất trong nước cũng phải chịu sức ép khác từ các cơ chế pháp luật – chính sách mới đối với sản xuất từ các FTA, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Ví dụ, Hoa Kỳ đã đề xuất các điều khoản để tăng cường mức độ và thời gian bảo hộ bản quyền sáng chế đối với các loại thuốc bảo vệ thực vật, phân bón (hóa chất nông nghiệp), thuốc thú y. Ai cũng biết bảo hộ càng cao thì giá của sản phẩm càng đắt (vì phải bao gồm trong đó cả phí bản quyền). Như vậy, chi phí sản xuất của người nông dân càng lớn, sức cạnh tranh của nông sản vì thế sẽ càng giảm.
Thứ ba, mở cửa và thu hút đầu tư qua FTA thế hệ mới: Khi các hàng rào bảo hộ bị dỡ bỏ, lợi thế tương đối và phân công lao động giữa các nền kinh tế sẽ có bước chuyển dịch. VN, với vị trí thuận lợi về địa kinh tế, địa chính trị, tài nguyên thiên nhiên, lực lượng lao động… sẽ có thể có lợi thế cao trong một số lĩnh vực: dệt may, giày dép, điện tử, sản xuất hàng tiêu dùng, IT, du lịch, logistic… Thách thức trong lĩnh vực này đối với DN, cũng tương tự khi VN gia nhập WTO, là làm sao để nguồn vốn, kinh nghiệm quản lý, công nghệ sản xuất/dịch vụ hiện đại… từ làn sóng đầu tư nước ngoài lan tỏa ra các DN nội địa của VN, để những lợi ích từ hội nhập không dồn vào “vùng trũng FDI” và để các DN VN có thể hợp tác hiệu quả và cùng hưởng lợi (win-win) với các DN FDI.
Thứ tư, từ góc độ môi trường chính sách – pháp luật về kinh doanh, tiếp nối những gì mà WTO đã mang lại, các FTA thế hệ mới có thể sẽ lại là động lực cho một làn sóng cải cách về thể chế và hành chính mới, hiệu quả và có định hướng cho VN. Việc thực hiện các cam kết cải cách trong lĩnh vực DN nhà nước, mua bán của Chính phủ, lao động – công đoàn, môi trường… sẽ có những tác động lớn đến cải cách thể chế trong nước. Môi trường kinh doanh sau TPP, vì vậy, có thể là bàn đạp rất tốt để các DN giải phóng sức sáng tạo trong kinh doanh và giúp VN sớm hình thành một đội ngũ doanh nhân mới.
Tâm thế chủ động của DN và sự đồng hành của Nhà nước
Lợi ích hay thiệt hại, cơ hội hay thách thức từ một hiệp định thương mại tự do thế hệ mới phụ thuộc một phần không nhỏ vào kết quả đàm phán, phần còn lại nằm ở khả năng tận dụng các cơ hội và vượt qua thách thức trong quá trình thực thi.
Đầu năm 2012, với Quyết định 06/2012/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, một cơ chế tham vấn chính thức, thường xuyên đã được xác lập giữa Đoàn đàm phán của Chính phủ với cộng đồng DN (trực tiếp hoặc thông qua đầu mối là VCCI) cũng nhằm mục đích này. VCCI cũng đã có nhiều khuyến nghị chính sách (mà mỗi khuyến nghị là một nghiên cứu rất công phu) gửi tới Đoàn đàm phán và các cơ quan liên quan. Rất hy vọng rằng những ý kiến này của VCCI nhân dân cộng đồng DN được các cơ quan tính tới trong quá trình đàm phán cũng như phê duyệt, phê chuẩn kết quả đàm phán, để các kết quả này thực sự phản ánh lợi ích của các DN trong lâu dài.
Từ góc độ thực thi, để chuẩn bị các điều kiện cho TPP và EVFTA, DN và hiệp hội DN rất cần tìm hiểu về TPP và EVFTA, và có hành động tương ứng ngay từ bây giờ. Ít nhất, có 4 việc DN và các hiệp hội DN cần tập trung triển khai ngay, đó là:
Một là, tìm hiểu, tập hợp thông tin về các xu hướng, cam kết trong các FTA có liên quan tới hoạt động của ngành mình và DN mình; Hai là, phân tích, đánh giá tác động của các cam kết FTA này đối với triển vọng kinh doanh của ngành và của DN; Ba là, xây dựng kế hoạch kinh doanh của từng DN trong thế liên kết với các DN khác trong theo chuỗi giá trị có tính đến các tác động cả tiêu cực và tích cực của các FTA này; Bốn là, bắt tay vào các hành động chuẩn bị cụ thể để đón đầu các cơ hội cũng như vượt qua thách thức ngay khi các FTA bắt đầu có hiệu lực.
Hơn thế, DN đang rất mong chờ sự vào cuộc của các cơ quan Nhà nước liên quan trong việc cung cấp thông tin cho DN về các FTA, đặc biệt khi việc đàm phán hoàn tất và trong quá trình chuẩn bị trước khi thực thi. Thông tin cung cấp cần cụ thể, dễ hiểu và dễ dàng tiếp cận được đối với DN. Hiện nay, Trung tâm WTO, Ủy ban tư vấn về Chính sách Thương mại Quốc tế (INTAC) và Hội đồng tư vấn về Phòng vệ thương mại (TRC) của VCCI đã có những nỗ lực bước đầu theo hướng này.
TPP có thể sẽ được ký kết trong một vài tháng tới và ít nhất cần một thời gian khoảng 02 năm cho các thủ tục phê chuẩn để thực thi.
Các cơ quan nhà nước cần phối hợp chặt chẽ hơn nữa với VCCI và các hiệp hội DN trong quá trình đàm phán cũng như thực thi các FTA. Cần xây dựng một kênh tham vấn DN thường xuyên và hiệu quả hơn không chỉ cho đàm phán mà quan trọng hơn là cho quá trình thực thi các cam kết thương mại.
Thúc đẩy cải cách thể chế, nâng cao năng lực của bộ máy nhà nước là một thách thức và đòi hỏi cấp bách hiện nay để đáp ứng yêu cầu phát triển và thực thi các FTAs mới. Việc thực hiện Nghị quyết 19 của Chính phủ về cải cách môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh cần được đẩy mạnh để DN và nền kinh tế có thể tận dụng tốt các cơ hội của hội nhập. Hơn nữa, tôi thiết nghĩ, để cạnh tranh được trong FTAs thế hệ mới, chúng ta không chỉ cần vươn tới chuẩn mực của ASEAN (dù là 4 hay 6) như Nghị quyết 19 yêu cầu, mà phải phấn đấu vươn tới chuẩn mực của các nước trong TPP, trong EVFTA mà chúng ta đang là nền kinh tế kém phát triển nhất trong các nền kinh tế tham gia các hiệp định này.
Chúng ta đều hiểu rằng, các hiệp định thương mại tự do luôn là cuộc chơi của các đại gia và khu vực DN nhỏ và vừa (SME) bao giờ cũng là khu vực dễ bị tổn thương nhất. Vì vậy, cần phải có một khung hành động chiến lược phát triển SMEs phù hợp cho giai đoạn 2016 – 2025 -những năm bản lề của hội nhập- với trọng tâm là tăng cường khả năng tiếp cận tài chính, công nghệ, nâng cao năng lực quản trị, marketing để khu vực DN nhỏ và vừa có thể vượt lên tham gia tích cực vào quá trình hội nhập, kết nối được vào các chuỗi giá trị toàn cầu, kết nối được với các DN FDI. Các nước ASEAN đang tích cực xây dựng một chiến lược như vậy và VN không thể là một ngoại lệ.
Đặc điểm của các FTA thế hệ mới:
Trong so sánh với các FTA mà Việt Nam đã ký kết và đang thực thi thì các FTA thế hệ mới mà Việt Nam đang đàm phán có một số đặc điểm riêng như sau:
– Mức độ tự do hóa (mở cửa) sâu: Với tiêu chí “FTA tiêu chuẩn cao”, dù chưa kết thúc đàm phán, có thể chắc chắn rằng mức độ mở cửa của Việt Nam cũng như các đối tác trong các FTA này là rất sâu (xóa bỏ phần lớn các dòng thuế, mở cửa mạnh các ngành dịch vụ…) và tất nhiên là rộng hơn nhiều so với WTO cũng như các FTA trước đây của Việt Nam (trừ ATIGA);
– Phạm vi cam kết rộng: Trong khi các FTA trước đây chủ yếu tập trung vào lĩnh vực thương mại hàng hóa, các FTA thế hệ mới sắp tới sẽ bao gồm những cam kết về nhiều lĩnh vực mới mà Việt Nam chưa từng cam kết/mở cửa trước đây, ví dụ: doanh nghiệp Nhà nước, mua sắm Chính phủ, lao động – công đoàn, môi trường…
– Nhiều cam kết về thể chế: Khác với các FTA trước đây chủ yếu ảnh hưởng tới chính sách thuế quan tại biên giới, các FTA thế hệ mới sắp tới có nhiều các cam kết ảnh hưởng trực tiếp và lớn đến thể chế, chính sách pháp luật nội địa (những vấn đề sau đường biên giới);
– Đối tác FTA đặc biệt lớn: Trong các FTA thế hệ mới mà Việt Nam đang đàm phán có những đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản.