Dấu ấn cải cách hành chính thuế

TS. NGUYỄN MINH PHONG

Sự quá tải, kém hiệu quả và mức độ tuân thủ thấp của người nộp thuế cho thấy, sự lạc hậu của mô hình quản lý hành chính thuế ở Việt Nam. Vì vậy, cải cách hành chính thuế vừa là mục tiêu, vừa là động lực hỗ trợ cải cách thuế đồng bộ và phải tập trung vào giảm sự quá tải của hệ thống quản lý thuế, giảm chi phí tuân thủ thuế và giảm chi phí quản lý thu thuế…

Ngành Thuế đã và đang nỗ lực thực hiện chương trình cải cách, hiện đại hoá hệ thống thuế Việt Nam theo mục tiêu hướng tới xây dựng chính sách thuế đồng bộ, thống nhất, công bằng, hiệu quả. Nguồn: internet
Ngành Thuế đã và đang nỗ lực thực hiện chương trình cải cách, hiện đại hoá hệ thống thuế Việt Nam theo mục tiêu hướng tới xây dựng chính sách thuế đồng bộ, thống nhất, công bằng, hiệu quả. Nguồn: internet

Suốt gần 10 năm qua, Quốc hội, Chính phủ và Bộ Tài chính, cùng các cơ quan chức năng nói chung, ngành Thuế cả nước nói riêng đã và đang nỗ lực thực hiện chương trình cải cách, hiện đại hoá hệ thống thuế Việt Nam theo mục tiêu hướng tới xây dựng chính sách thuế đồng bộ, thống nhất, công bằng, hiệu quả, thực sự là một trong những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô có hiệu quả, hiệu lực, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Mức động viên hợp lý nhằm tạo điều kiện cho người nộp thuế (NNT) tăng tích tụ, tăng khả năng cạnh tranh; xây dựng ngành Thuế Việt Nam hiện đại, hiệu lực, hiệu quả. Công tác quản lý thuế và phí, lệ phí thống nhất, minh bạch, đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện dựa trên ba nền tảng cơ bản: thể chế chính sách thuế minh bạch, quy trình thủ tục hành chính thuế đơn giản, khoa học theo thông lệ quốc tế.

Nguồn nhân lực có chất lượng, liêm chính và ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại, có tính liên kết, tích hợp, tự động hóa cao, vừa bảo đảm yêu cầu quản lý, vừa hỗ trợ tạo điều kiện cho NNT thuận lợi trong quá trình thực hiện nghĩa vụ thuế của mình.

Đến nay, về cơ bản, thể chế, chính sách thuế đang từng bước được sửa đổi theo hướng đơn giản, minh bạch, rõ ràng, dễ thực hiện đáp ứng yêu cầu đơn giản hóa thủ tục hành chính, hội nhập kinh tế quốc tế, thúc đẩy phát triển sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ sản xuất trong nước, khuyến khích xuất khẩu và đổi mới công nghệ; ngành Thuế đã hoàn thành 100% việc thực thi đơn giản hóa thủ tục hành chính (đơn giản hóa 222/222 thủ tục hành chính).

Riêng năm 2014 và đầu năm 2015, ngành Thuế đã sửa đổi, bổ sung và xây dựng 44 quy trình, quy chế và sổ tay nghiệp vụ; rà soát, hệ thống hóa danh mục thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế gồm 421 thủ tục hành chính (trong đó cấp Tổng cục Thuế 4 thủ tục, cấp Cục thuế 236 thủ tục, cấp Chi cục Thuế 181 thủ tục).

Thủ tục khai thuế VAT của doanh nghiệp đã được đơn giản hóa hơn rất nhiều trong Thông tư 119, Thông tư 151 hướng dẫn Nghị định 91. Theo đó, doanh nghiệp không phải khai những thông tin, chỉ tiêu không liên quan đến việc tính thuế của doanh nghiệp, như các hóa đơn mua bán hàng hóa, dịch vụ không đủ điều kiện để khấu trừ thuế; hóa đơn không phải tổng hợp lên tờ khai, hay khai các thông tin mà cơ quan thuế không kiểm tra, đối chiếu được ngay trên hồ sơ...

Trên thực tế, doanh nghiệp đã tiết kiệm được nhiều thời gian để chuẩn bị kê khai thuế, chỉ cần chuyển dữ liệu từ phần mềm kế toán là có thể hoàn thành việc kê khai thuế. Các quy định về chính sách và thủ tục thuế thu nhập doanh nghiệp cũng được đơn giản hóa thông qua việc loại bỏ kê khai các khoản doanh thu, chi phí mang tính chất chênh lệch tạm thời giữa kế toán và thuế.

Tính đến 20/4/2016, có tới 99,56% (hơn 529 nghìn DN) tổng số (hơn 531 nghìn) DN đã thực hiện khai thuế điện tử (hiện với hơn 30,5 triệu hồ sơ) tại tất cả 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trên cả nước. Đồng thời, 45 ngân hàng thương mại cũng đã tham gia ký thỏa thuận với ngành thuế để hỗ trợ quá trình này; hơn 506 nghìn doanh nghiệp (tỷ lệ 95,38%) đã đăng ký tham gia sử dụng dịch vụ với cơ quan thuế; trên 485 nghìn doanh nghiệp (tỷ lệ 91,41% ) đăng ký dịch vụ với ngân hàng.

Cần nhấn mạnh rằng, sự mở rộng khai thuế điện tử không chỉ giúp tiết kiệm thời gian, chi phí của doanh nghiệp, mà còn hạn chế các tiêu cực gắn với sự can thiệp, tiếp xúc trực tiếp giữa cán bộ thuế với doanh nghiệp trong quá trình khai và nộp thuế…

Tổng cục Thuế đang tiếp tục thực hiện các dự án ứng dụng công nghệ thông tin trong quy trình quản lý nhà nước, như: Nâng cấp và vận hành hệ thống ứng dụng tích hợp thông tin giữa các cấp trong ngành Thuế và các đơn vị bên ngoài; kết nối, trao đổi thông tin người nộp thuế với Bảo hiểm Xã hội Việt Nam.

Đặc biệt, từ tháng 4/2016, thực hiện cung cấp và hỗ trợ sử dụng 10 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và 4: Website tra cứu thông tin người nộp thuế; Website hỏi đáp chính sách thuế; Dịch vụ hỗ trợ nộp tờ khai quyết toán thuế TNCN online; Tra cứu hóa đơn; Dịch vụ hỗ trợ Kê khai Hồ sơ khai thuế qua mạng Internet; Dịch vụ hỗ trợ Kê khai Báo cáo hóa đơn qua mạng Internet; Dịch vụ hỗ trợ Kê khai Báo cáo biên lai phí, lệ phí qua mạng Internet; Dịch vụ hỗ trợ Kê khai Báo cáo tài chính qua mạng Internet; Dịch vụ Nộp thuế qua mạng (bao gồm 2 dịch vụ: Nộp trực tiếp và nộp thay); Đăng ký MST cá nhân và MST người phụ thuộc của cá nhân thông qua cơ quan chi trả.

Tổng cục Thuế cũng đã tổ chức hỗ trợ cho 210 doanh nghiệp triển khai việc đăng ký và xuất hóa đơn điện tử có xác thực tại Cục Thuế TP Hà Nội và TP Hồ Chí Minh; xây dựng các quy trình nghiệp vụ cơ bản phục vụ việc triển khai mở rộng hệ thống hóa đơn điện tử cho các doanh nghiệp/tổ chức trên cả nước.

Đến hết tháng 11/2014, đã có 201 đại lý thuế được thành lập và hoạt động với 498 nhân viên đại lý thuế hành nghề (năm 2010, cả nước có 41 đại lý thuế với 87 nhân viên đại lý thuế hành nghề).

Công tác quản lý, kiểm tra, thanh tra thuế được thực hiện đồng bộ dựa trên việc ghi chép, hạch toán sổ sách kế toán của doanh nghiệp, góp phần vừa đơn giản hóa thủ tục hành chính cho doanh nghiệp nhưng vẫn phòng ngừa, chống thất thu, gian lận về khấu trừ, hoàn thuế; nhất là đối với thuế VAT.

Bên cạnh việc hoàn thiện thể chế, những năm qua, ngành Thuế tiếp tục xây dựng, hoàn thiện áp dụng quản lý rủi ro trong quản lý thuế, đặc biệt trong công tác thanh tra, kiểm tra, quản lý thu nợ và cưỡng chế nợ thuế, giám sát sự tuân thủ NNT. Kỹ thuật quản lý chuyển đổi từ quản lý dựa trên hóa đơn sang quản lý đối tượng có rủi ro; bổ sung quy định nguyên tắc thực hiện kiểm tra thuế dựa theo tiêu thức quản lý rủi ro qua phân tích, đánh giá việc chấp hành pháp luật của NNT; lựa chọn theo ngành nghề, quy mô, địa bàn để kiểm tra.

Điều này giúp phân loại doanh nghiệp, làm rõ việc cơ quan thuế nên tập trung nguồn lực vào đâu, khu vực nào có thất thu, trốn thuế để tập trung quản lý, bảo đảm công tác quản lý thuế thông thoáng hơn nhưng vẫn hiệu quả, chống thất thu NSNN.

Theo đó, bộ tiêu chí rủi ro phục vụ phân tích, nhận dạng rủi ro về thuế tiếp tục được hoàn thiện và đưa vào sử dụng Ứng dụng lập kế hoạch thanh tra (TPR). Hệ thống cơ sở dữ liệu NNT tiếp tục được ngành Thuế chú trọng xây dựng, tích hợp theo hướng tập trung, bảo đảm đầy đủ, chính xác bước đầu đã đáp ứng yêu cầu phân tích thông tin để xác định đối tượng và nội dung thanh tra, kiểm tra.

Các ứng dụng phục vụ thanh tra, kiểm tra NNT, quản lý nợ và cưỡng chế nợ thuế đã được nâng cấp kịp thời, đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý thuế. Số NNT nợ thuế và số thuế nợ đọng của từng NNT được rà soát, xác định, phân loại, theo dõi trên hệ thống ứng dụng quản lý nợ làm căn cứ xây dựng chỉ tiêu thu nợ phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành thu nợ thuế. Nguyên nhân, tình trạng nợ thuế được xác định làm cơ sở áp dụng các biện pháp thu hồi nợ phù hợp, hiệu quả.

Thực tế cũng cho thấy, cải cách hành chính thuế, cụ thể là cải cách thủ tục hành chính luôn được Tổng cục Thuế ưu tiên hàng đầu cùng với nhiệm vụ quản lý thu ngân sách nhà nước.

Ngoài ra, ngành Thuế đã thường xuyên tổ chức các cuộc đối thoại với NNT, từ đó giải đáp kịp thời các vướng mắc về chính sách thuế mới và ghi nhận các ý kiến đóng góp để xem xét, chấn chỉnh hoặc hoàn thiện chính sách, nâng cao năng lực, trách nhiệm công chức ngành thuế phù hợp với tình hình thực tiễn.

Nhờ những nỗ lực trên, hiệu quả quản lý Thuế đã được cải thiện rõ rệt: Tổng cộng năm 2014 và sáu tháng đầu năm 2015, giảm được 420/537 giờ nộp thuế của doanh nghiệp. Số giờ tuân thủ thuế của doanh nghiệp đã giảm từ 872 giờ/năm xuống còn 171 giờ/năm, tức đạt vượt được mục tiêu mà Nghị quyết số 19/NQ-CP của Chính phủ đã đặt ra về việc giảm số giờ nộp thuế đối với NNT xuống dưới 121,5 giờ trong năm 2015.

Đặc biệt, ngành Thuế liên tục hoàn thành vượt dự toán nhiệm vụ thu NSNN được giao. Cụ thể, năm 2011 hoàn thành 122,7% dự toán; năm 2012 hoàn thành 106,1% dự toán; năm 2013 hoàn thành 106,1% dự toán; năm 2014 hoàn thành 109,1% dự toán và 2015 là 108%. Thu NSNN bình quân giai đoạn 2011-2015 ước đạt khoảng 22 - 23% GDP.

Thời gian tới, ngành Thuế sẽ tiếp tục triển khai ứng dụng công nghệ thông tin kê khai, nộp thuế điện tử đối với lệ phí trước bạ khi tổ chức, cá nhân đăng ký ô tô, xe máy, nhà đất...; thuế thu nhập cá nhân đối với chuyển nhượng bất động sản; thu từ hoạt động cho thuê nhà. Thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin cấp độ 4 (tiếp nhận hồ sơ hoàn thuế qua mạng và trả kết quả hoàn thuế bằng phương thức điện tử qua mạng) tối thiểu đạt 60% số tờ khai và số tiền hoàn thuế trước ngày 30-9 và đạt 95% vào trước 30-9-2016.

Tiếp tục triển khai xây dựng và công khai cơ sở dữ liệu tập trung thống nhất toàn quốc về các hồ sơ hoàn thuế, thực hiện công tác giám sát tập trung đối với toàn hệ thống; xây dựng cơ sở dữ liệu về người nộp thuế phục vụ công tác thanh tra, kiểm tra thuế dựa trên đánh giá rủi ro. Từ đó phòng tránh các hành vi gian lận, trốn thuế, chống thất thu, chống gian lận về khấu trừ, hoàn thuế VAT.

Đồng thời, tiếp tục rà soát sửa đổi, bổ sung các quy trình quản lý thuế, tư vấn thuế; xây dựng chế độ trách nhiệm công vụ đối với công chức thuế trong thực hiện các thủ tục hành chính, bảo đảm cải cách thủ tục hành chính thuế thực chất hơn, nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý hành chính thuế…