Đẩy mạnh triển khai cơ chế tự chủ đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập
Triển khai thực hiện cơ chế tự chủ đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập góp phần trong nguồn thu sự nghiệp, tăng cường tính công khai, minh bạch và dân chủ trong hoạt động của các cơ sở này. Để vượt qua những thách thức trong thực hiện cơ chế tự chủ, thúc đẩy phát triển lĩnh vực sự nghiệp giáo dục đại học, nâng cao chất lượng dịch vụ. Chính phủ đã ban hành cơ chế, chính sách khuyến khích và tạo điều kiện cho tất cả các cơ sở giáo dục đại học công lập.
Cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập nói chung, các cơ sở giáo dục đại học công lập (CSGDĐHCL) nói riêng theo Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ (Nghị định 43) được hình thành và khởi nguồn từ việc thực hiện thí điểm chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu (Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 của Chính phủ).
Trải qua gần 10 năm thực hiện, Nghị định 43 đã góp phần nâng cao tính chủ động, sáng tạo của các CSGDĐHCL; huy động được sự đóng góp và tham gia tích cực của cộng đồng xã hội cho phát triển hoạt động giáo dục đại học, nhờ đó làm tăng nguồn thu sự nghiệp và tăng thu nhập cho công chức, viên chức; tính công khai, minh bạch và dân chủ trong các quyết định và hoạt động tại các CSGDĐHCL cũng được tăng cường. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực cũng cho thấy những hạn chế, bất cập của Nghị định 43. Đó là:
(i) Các CSGDĐHCL được giao tự chủ nhưng vẫn phải tuân thủ mức trần học phí do Nhà nước quy định tại Nghị định số 49/2010/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ trong khi mức học phí quy định chưa đảm bảo bù đắp đủ chi phí hoạt động cần thiết của CSGDĐHCL, chưa sát với yêu cầu chi phí đặc thù của từng ngành, nghề đào tạo cũng như chưa gắn với yêu cầu về chất lượng, thương hiệu của từng CSGDĐHCL;
(ii) cơ chế phân bổ NSNN cho các CSGDĐHCL còn mang tính bình quân và dựa trên các yếu tố đầu vào mà chưa gắn với kết quả, hiệu quả hoạt động;
(iii) khó khăn trong việc triển khai thực hiện xã hội hóa và liên doanh liên kết do quy định còn chưa cụ thể, rõ ràng;
(iv) tự chủ về nhân sự bị hạn chế do cấp trên vẫn giao chỉ tiêu biên chế sự nghiệp…
Cơ chế tự chủ đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập
Xuất phát từ những bất cập trên, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 24/10/2014 về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các CSGDĐHCL giai đoạn 2014 - 2017 (Nghị quyết 77) và Nghị định số 16/2015/NĐ - CP ngày 14/02/2015 về cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập (Nghị định 16) thay thế cho Nghị định 43 khuyến khích và tạo điều kiện cho tất cả các CSGDĐHCL có đủ điều kiện, cam kết tự đảm bảo kinh phí hoạt động chi thường xuyên và chi đầu tư được thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm toàn diện về nhiệm vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính.
Cơ chế phân bổ NSNN gắn với số lượng, chất lượng sản phẩm dịch vụ sự nghiệp công được cung cấp thông qua phương thức đấu thầu, đặt hàng, giao nhiệm vụ cho các đơn vị. Đối với CSGDĐHCL được Nhà nước giao cung cấp dịch vụ công theo giá, phí chưa tính đủ chi phí sẽ được NSNN hỗ trợ phần chi phí chưa kết cấu trong giá, phí dịch vụ sự nghiệp công.
NSNN chỉ đảm bảo kinh phí hoạt động thường xuyên đối với CSGDĐHCL được Nhà nước giao dự toán theo nhiệm vụ, trên cơ sở số lượng người làm việc được cấp có thẩm quyền phê duyệt và định mức phân bổ dự toán được cấp có thẩm quyền quyết định.
Đồng thời Nhà nước sẽ hỗ trợ trực tiếp cho các đối tượng chính sách (người có công, người nghèo...) sử dụng dịch vụ sự nghiệp công, phù hợp với lộ trình giá dịch vụ sự nghiệp công. Theo đó, sẽ từng bước thu hẹp đối tượng, phạm vi các đơn vị sự nghiệp công lập được hỗ trợ chi thường xuyên từ NSNN so với hiện nay chỉ có dịch vụ sự nghiệp công sử dụng NSNN mới được Nhà nước hỗ trợ kinh phí.
Những khó khăn, thách thức
Triển khai thực hiện Nghị quyết 77 và Nghị định 16, tính đến nay đã có 02 học viện, 11 trường đại học và 03 trường cao đẳng được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đổi mới cơ chế hoạt động.
Tuy nhiên, trong 05 trường đại học/học viện thuộc Bộ Tài chính thì mới chỉ có 01 trường (Trường Đại học Tài chính - Marketing) là được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động tại Quyết định số 378/QĐ-TTg ngày 23/3/3015 của Thủ tướng Chính phủ.
Qua hơn 01 năm triển khai thực hiện cho thấy các trường/học viện thuộc Bộ Tài chính vẫn gặp những khó khăn, thách thức trong thực hiện cơ chế tự chủ. Cụ thể: Về tự chủ thực hiện nhiệm vụ nảy sinh một số thách thức:
(i) Yêu cầu cung cấp dịch vụ có chất lượng để đáp ứng được nhu cầu của xã hội và cạnh tranh được với các đơn vị cung ứng dịch vụ ngoài công lập;
(ii) điều kiện cơ sở vật chất, tiêu chuẩn trình độ đội ngũ giảng viên đối với các ngành, chuyên ngành đào tạo mới. Điều này đòi hỏi các trường/học viện phải tăng cường đầu tư bồi dưỡng giảng viên, đồng thời có chính sách ưu đãi thu hút giảng viên đảm bảo đủ điều kiện mở rộng chuyên ngành đào tạo, tăng quy mô, đáp ứng yêu cầu của xã hội;
(iii) quy định về tuyển sinh hiện nay cũng khiến các trường/học viện gặp khó khăn trong công tác tuyển sinh;
(iv) các CSGDĐHCL phải đạt được chuẩn mực cao hơn trong việc xây dựng và công bố chuẩn đầu ra làm cơ sở để xã hội có căn cứ đánh giá và giám sát chất lượng đầu ra...
Trong tổ chức bộ máy, nhân sự quy định về xác định vị trí việc làm còn chưa cụ thể, khó thực hiện nên gây khó khăn trong công tác tuyển dụng.
Về cơ chế giá dịch vụ công: Khi thực hiện chuyển dần từ thu học phí sang áp dụng cơ chế giá dịch vụ đòi hỏi hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật, danh mục dịch vụ sự nghiệp giáo dục trong từng ngành, lĩnh vực làm cơ sở cho việc xác định giá dịch vụ sự nghiệp công phải được xây dựng và hoàn thiện.
Ngoài ra, vấn đề kết cấu lương vào giá phải có hướng dẫn cụ thể hơn, đặc biệt trong trường hợp xác định giá dịch vụ giáo dục trên cơ sở thực hiện tính theo mức lương cơ sở, hệ số tiền lương, ngạch bậc, chức vụ đối với CSGDĐHCL và định mức lao động theo quy định.
Cơ chế tiền lương và thu nhập tăng thêm:
(i) Mặc dù quy định giá dịch vụ tính đúng, tính đủ các chi phí nhưng hiện nay theo quy định thì các CSGDĐHCL vẫn phải dành 40% số thu để lại để tạo nguồn cải cách tiền lương. Nếu thực hiện quy định này thì các đơn vị sự nghiệp công lập sẽ không còn nhiều nguồn để chi trả thu nhập tăng thêm;
(ii) quy định hệ số thu nhập tăng thêm của chức danh lãnh đạo CSGDĐHCL tối đa không quá 2 lần hệ số thu nhập tăng thêm bình quân thực hiện của người lao động trong đơn vị chưa phản ánh đầy đủ và xứng đáng năng lực, vai trò, trách nhiệm của người lãnh đạo đơn vị, không khuyến khích họ toàn tâm toàn ý với công việc.
Trong tự chủ tài chính cũng đặt ra một số thách thức:
(i) Hiện nay, Nhà nước vẫn chưa có cơ chế hỗ trợ cụ thể cho các trường/học viện thực hiện thí điểm cơ chế tự chủ được vay vốn ưu đãi (hoặc hỗ trợ lãi suất) để đầu tư tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học;
(ii) Ngân hàng Chính sách xã hội chưa điều chỉnh tăng mức cho vay tín dụng đối với sinh viên học tại trường đang thí điểm tự chủ, điều này cũng gây khó khăn, ảnh hưởng đến tâm lý cho người học, nhất là sinh viên nghèo, sinh viên thuộc diện chính sách;
(iii) chưa quy định cụ thể việc hạch toán một số nghiệp vụ kế toán mới phát sinh như: Lãi tiền gửi lập quỹ học bổng; trích lập quỹ nghiên cứu khoa học 3% theo Nghị định số 99/2014/ NĐ-CP ngày 25/10/2014 của Chính phủ; các khoản thu sự nghiệp khác trong đề án tự chủ;
(iv) chưa có quy định về điều kiện liên doanh liên kết của đơn vị sự nghiệp công lập, về xác định giá trị thương hiệu khi góp vốn liên doanh, liên kết. Điều này cho thấy cần có cơ chế hỗ trợ đầu tư cơ sở vật chất cho một số CSGDĐHCL thuộc các khối ngành có khả năng xã hội hóa thấp có nguyện vọng tham gia thực hiện thí điểm tự chủ.
Khó khăn cho các CSGDĐHCL thực hiện cơ chế tự chủ khi đối tượng chính sách tập trung nhiều, khó đảm bảo cân đối thu, chi của đơn vị khi thực hiện cơ chế tự chủ.
Mối quan hệ giữa Ban Giám đốc, Hội đồng trường/Hội đồng quản lý và Đảng ủy trong các trường/học viện hiện còn chưa được làm rõ, gây khó khăn trong quá trình hoạt động và thực hiện cơ chế tự chủ đối với các trường/học viện.
Một số đề xuất giải pháp
Trên cơ sở đánh giá những thuận lợi và khó khăn, thách thức trong thực hiện cơ chế tự chủ đối với các CSGDĐHCL thuộc Bộ Tài chính, để đảm bảo triển khai thực hiện thống nhất, đồng bộ, có hiệu quả Nghị quyết 77, Nghị định 16 và để thúc đẩy phát triển lĩnh vực sự nghiệp giáo dục đại học, nâng cao chất lượng dịch vụ trong thời gian tới cần thực hiện một số đề xuất sau:
Tăng cường hơn nữa quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các CSGDĐHCL về nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính trên cơ sở giảm bớt các rào cản quy định có liên quan (ví dụ như quy định về quy mô sinh viên tối đa trong xác định chỉ tiêu tuyển sinh ở các ngành tại Thông tư số 32/2015/TT-BGDĐT ngày 16/12/2015 của Bộ Giáo dục và Đào tạo; hay quy định dành tối thiểu 5% kinh phí từ nguồn thu hợp pháp của CSGDĐHCL để đầu tư phát triển tiềm lực và khuyến khích hoạt động khoa học công nghệ tại Nghị định số 99/2014/NĐ-CP ngày 25/10/2014 của Chính phủ, dành tối thiểu 3% kinh phí từ nguồn thu học phí của CSGDĐHCL để cho sinh viên và người học hoạt động nghiên cứu khoa học...), đồng thời cần có hướng dẫn cụ thể hơn đối với các nội dung quy định tại Nghị quyết 77 và Nghị định 16 để đảm bảo tính rõ ràng, minh bạch của chính sách (như về sử dụng nguồn lực liên doanh liên kết, góp vốn bằng tài sản, tự chủ về chế độ làm việc của giảng viên, về giờ chuẩn và nghĩa vụ giảng dạy, về sự khác biệt giữa Hội đồng trường và Hội đồng quản lý...).
Đảm bảo tự chủ về nguồn thu và quản lý nguồn thu của các CSGDĐHCL. Theo đó các CSGDĐHCL cần chủ động trong việc tìm kiếm, khai thác và phát triển các hoạt động sự nghiệp nhằm tăng nguồn thu sự nghiệp thông qua vận động các nguồn viện trợ, tài trợ trong và ngoài nước, đẩy mạnh các hoạt động tạo nguồn thu từ sự đóng góp của người học trên cơ sở nâng cao chất lượng dịch vụ, thực hiện cơ chế giá dịch vụ, tăng cường liên kết đào tạo, nghiên cứu khoa học, thúc đẩy hợp tác công tư (PPP) và đẩy mạnh hợp tác quốc tế về đào tạo...
Đổi mới cơ chế phân bổ NSNN cho sự nghiệp giáo dục đào tạo nói chung, các CSGDĐHCL nói riêng trên cơ sở các ưu tiên và kết quả đầu ra. Đẩy mạnh chuyển đổi việc cấp phát kinh phí NSNN sang hình thức đặt hàng, giao nhiệm vụ.
Cần có chính sách khuyến khích, hỗ trợ các CSGDĐHCL chuyển đổi cơ chế hoạt động thông qua tiếp cận vốn vay ưu đãi, hỗ trợ lãi suất để đầu tư tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học, ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp...; đổi mới chính sách ưu đãi tín dụng đối với học sinh, sinh viên cho phù hợp với cơ chế tự chủ theo Nghị định 16 khi thực hiện chuyển từ cơ chế học phí sang giá dịch vụ.
Nghiên cứu và thực hiện tái cấu trúc các trường thuộc Bộ Tài chính nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động cũng như trong cung cấp dịch vụ.
Tăng cường tuyên truyền đổi mới cơ chế hoạt động đối với đơn vị sự nghiệp công lập theo Nghị quyết 77, Nghị định 16 nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết về cơ chế tự chủ và tăng cường sự đồng thuận của các trường/ học viện và công chúng trong thực hiện cơ chế tự chủ.
Để thực hiện các giải pháp nêu trên, Chính phủ, các Bộ, ngành liên quan và các CSGDĐHCL cần thực hiện các nội dung sau:
Đối với các cơ sở GDĐH:
(i) Chủ động nâng cao chất lượng và đa dạng hóa các loại hình dịch vụ thông qua phát triển đội ngũ giảng viên, đổi mới giáo trình, bài giảng, tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học...;
(ii) tăng cường nguồn thu của đơn vị thông qua đẩy mạnh xã hội hóa, liên doanh liên kết, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong giáo dục đào tạo và nghiên cứu khoa học;
(iii) chú trọng quảng bá, xây dựng hình ảnh và thương hiệu của trường;
(iv) mạnh dạn xây dựng và đổi mới cơ chế hoạt động của trường, gắn lợi ích vật chất với hiệu quả hoạt động...
Đối với Chính phủ:
(i) Cần sớm ban hành nghị định quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực giáo dục đào tạo;
(ii) cụ thể hóa các nội dung nêu tại Nghị quyết 77 và Nghị định 16;
(iii) Chính phủ cần tạo điều kiện cung cấp thông tin dự báo đầy đủ về nhu cầu đào tạo của xã hội để cho các trường/học viện có chiến lược, kế hoạch đào tạo;
(iv) thực hiện tái cấu trúc tổng thể các CSGDĐHCL.
Các Bộ, ngành:
(i) Xây dựng các tiêu chuẩn, điều kiện, định mức kinh tế kỹ thuật làm cơ sở cho việc xây dựng phương thức và tiêu chí phân bổ ngân sách gắn với các đầu ra cụ thể;
(ii) sớm hoàn thiện quy hoạch mạng lưới các CSGDĐHCL, danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng NSNN thuộc lĩnh vực quản lý;
(iii) chú trọng công tác kiểm tra, giám sát, yêu cầu công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của các CSGDĐHCL.
Bộ Nội vụ:
Sớm có hướng dẫn cụ thể về thành lập và hoạt động của Hội đồng quản lý; làm rõ mối quan hệ giữa Ban Giám đốc, Hội đồng trường/Hội đồng quản lý và Đảng ủy trong các trường/học viện; hướng dẫn nguyên tắc, phương pháp xác định vị trí việc làm; thẩm quyền, trình tự, thủ tục quyết định số lượng vị trí việc làm; hướng dẫn các đơn vị sự nghiệp công chưa xây dựng được vị trí việc làm và cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp xác định số lượng người làm việc trên cơ sở định biên bình quân các năm trước.
Bộ Tài chính:
(i) Đổi mới phương pháp phân bổ kinh phí NSNN theo kết quả đầu ra và có hướng dẫn cụ thể;
(ii) nghiên cứu và tham mưu cho Chính phủ ban hành chính sách tài chính khuyến khích đổi mới cơ chế hoạt động của CSGDĐHCL (ví dụ chính sách hỗ trợ lãi suất cho các dự án đầu tư sử dụng vốn vay, cho vay vốn ưu đãi để đầu tư phát triển...);
(iii) có hướng dẫn việc hạch toán một số nghiệp vụ kế toán mới phát sinh khi áp dụng Nghị định 16 như: Lãi tiền gửi lập quỹ học bổng, trích lập các quỹ, các khoản thu sự nghiệp khác trong đề án tự chủ.
Bộ Giáo dục và Đào tạo:
(i) Thực hiện công tác đánh giá, kiểm định chất lượng giáo dục đại học và xếp hạng các trường đại học và cao đẳng;
(ii) sớm ban hành quy định về cơ sở giáo dục đại học đạt chuẩn quốc gia theo Luật Giáo dục đại học;
(iii) phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan ban hành các văn bản hướng dẫn, cụ thể hóa các quyền và trách nhiệm của CSGDĐHCL thực hiện thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động.