Tự chủ tài chính đối với đại học công lập: Lý luận và giải pháp
Việc trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập đã mở ra cơ hội cho các cơ sở giáo dục đại học công lập trong việc nâng cao tính chủ động, sáng tạo trong quản lý tài chính và tài sản của đơn vị, sử dụng ngân sách nhà nước được giao tiết kiệm, hiệu quả hơn... Tuy nhiên, hoạt động này hiện vẫn còn tồn tại nhiều vướng mắc.
Cơ sở pháp lý của tự chủ tài chính trong giáo dục đại học công lập
Nhằm khuyến khích các cơ sở giáo dục đại học công lập (ĐHCL) chủ động khai thác, sử dụng hợp lý nguồn ngân sách nhà nước (NSNN), tăng cường thu hút các nguồn lực ngoài ngân sách; đồng thời, không làm giảm cơ hội tiếp cận giáo dục đại học của sinh viên nghèo, sinh viên là đối tượng chính sách, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 77/NQ-CP (ngày 24/10/2014) thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục ĐHCL giai đoạn 2014 – 2017.
Theo đó cơ sở giáo dục ĐHCL khi cam kết tự bảo đảm toàn bộ kinh phí hoạt động chi thường xuyên và chi đầu tư được thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm toàn diện.
Cơ sở giáo dục ĐHCL được quyết định mức học phí bình quân tối đa bằng mức trần học phí do Nhà nước quy định cộng với khoản chi thường xuyên NSNN cấp bình quân cho mỗi sinh viên công lập trong cả nước; Quyết định mức học phí cụ thể đối với từng ngành nghề, chương trình đào tạo theo nhu cầu người học và chất lượng đào tạo, bảo đảm mức học phí bình quân trong nhà trường không vượt quá giới hạn mức học phí bình quân tối đa, thực hiện công khai mức học phí cho người học trước khi tuyển sinh. Bên cạnh đó, đối với khoản thu học phí và các khoản thu sự nghiệp khác được gửi ngân hàng thương mại (NHTM).
Về chính sách học bổng, học phí đối với đối tượng chính sách, Nghị quyết 77/NQ-CP nêu rõ, việc thực hiện tự chủ của các trường đại học phải bảo đảm không làm giảm cơ hội tiếp cận giáo dục đại học của sinh viên nghèo, sinh viên là đối tượng chính sách.
Các trường đại học tự chủ phải xây dựng, thực hiện các chính sách cấp học bổng đối với sinh viên xuất sắc, sinh viên giỏi, sinh viên là đối tượng chính sách; miễn giảm học phí cho sinh viên nghèo, sinh viên là đối tượng chính sách và hỗ trợ phần chênh lệch giữa mức hỗ trợ của Nhà nước với mức học phí của nhà trường; sử dụng toàn bộ tiền lãi của khoản học phí và các khoản thu sự nghiệp khác gửi NHTM để lập các Quỹ Hỗ trợ sinh viên.
Thực tế, việc xây dựng lộ trình tính đủ chi phí trong học phí, trong giá cung cấp dịch vụ công cũng chính là nội dung cơ bản đã được quy định tại Nghị định 16/2015/NĐ-CP của Chính phủ (ban hành ngày 14/2/2015) về cơ chế tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp công lập. Nghị định mới đã đẩy mạnh giao quyền tự chủ tài chính cho các trường ĐHCL, giảm bớt đầu mối các trường ĐHCL nhận kinh phí hoạt động thường xuyên từ NSNN, giảm bớt việc hỗ trợ NSNN thông qua việc duy trì mức học phí thấp đối với các ngành học, đáp ứng nhu cầu xã hội như kinh tế, tài chính, ngân hàng…
Mặt khác, Nghị định mới cũng đã tăng quyền tự chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp công, trong đó đối tương ĐHCL là đối tượng chịu tác động trực tiếp. Nghĩa là, đơn vị sự nghiệp công không sử dụng kinh phí NSNN được xác định giá dịch vụ sự nghiệp công theo cơ chế thị trường, được quyết định các khoản thu, mức thu bảo đảm bù đắp chi phí hợp lý, có tích lũy theo quy định của pháp luật đối với từng lĩnh vực; Giá dịch vụ sự nghiệp công sử dụng kinh phí NSNN cũng được xác định trên cơ sở định mức kinh tế - kỹ thuật, định mức chi phí do cơ quan có thẩm quyền ban hành và lộ trình tính đủ chi phí.
Cùng với đó, lộ trình tính giá dịch vụ sự nghiệp công sử dụng kinh phí NSNN kết cấu dần các chi phí vào giá dịch vụ. Với cơ chế tính giá này, các đối tượng sử dụng dịch vụ sẽ phải trả đủ chi phí cung cấp dịch vụ. Các đơn vị sự nghiệp công được hạch toán đầy đủ các chi phí cần thiết sẽ có động lực chuyển sang tự chủ ở mức cao hơn, từ đó nâng cao số lượng, chất lượng dịch vụ công và cạnh tranh minh bạch, bình đẳng được với đơn vị sự nghiệp ngoài công lập.
Việc trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập đã mở ra, tạo cơ hội cho các cơ sở giáo dục đại học công lập nâng cao tính tích cực chủ động, sáng tạo trong quản lý tài chính và tài sản của đơn vị, sử dụng ngân sách nhà nước được giao tiết kiệm, hiệu quả hơn.
Điều này không chỉ tăng quyền tự chủ cho đơn vị mà còn giúp cho nguồn NSNN tập trung đầu tư phát triển giáo dục đại học theo hướng nâng cao chất lượng và hiệu quả. Tập trung ngân sách đầu tư xây dựng một số trường đại học đạt tiêu chuẩn quốc tế,. Những trường này có quyền tự chủ cao, phương thức quản lý tiến tiến, có nguồn thu học phí và thu hoạt động dịch vụ đảm bảo bù đắp được chi phí hoạt động thường xuyên, làm hình mẫu để từng bước nhân rộng trong cả nước…
Những vấn đề đặt ra
Tài chính là một nguồn lực rất quan trọng để thúc đẩy sự phát triển của giáo dục, trong đó có giáo dục đại học. Tuy nhiên, trong điều kiện nguồn ngân sách dành cho giáo dục đại học còn hạn hẹp thì thực hiện tự chủ tài chính của các trường ĐHCL là tất yếu, để sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, đồng thời vận động các nguồn lực của xã hội cho phát triển giáo dục đại học.
Việc trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính đối với các cơ sở giáo dục ĐHCL đã mở ra, tạo cơ hội cho các cơ sở giáo dục ĐHCL nâng cao tính tích cực chủ động, sáng tạo trong quản lý tài chính và tài sản của đơn vị, sử dụng NSNN được giao tiết kiệm, hiệu quả hơn. Khi thực hiện chế độ giao, khoán mức chi như điện thoại, văn phòng, công tác phí… sẽ giảm đáng kể chứng từ, hóa đơn, các đơn vị sử dụng tiết kiệm các nguồn kinh phí để từ đó góp phần vào việc tăng thu nhập cho giảng viên và công nhân viên. Hơn nữa, việc thực hiện cơ chế này còn góp phần sử dụng hiệu quả hơn các nguồn nhân lực.
Việc thực hiện tự chủ tài chính của các cơ sở giáo dục ĐHCL sẽ giúp tăng nguồn thu đầu tư cho giáo dục. Khảo sát các nước trên thế giới cho thấy, các cơ sở giáo dục đại học của các nước này nhận hỗ trợ tài chính từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm: Kinh phí nhà nước phân bổ cho hoạt động, đặc biệt là giảng dạy và nghiên cứu khoa học; Kinh phí phân bổ cho nghiên cứu hoặc hỗ trợ cho các dự án nghiên cứu từ các nguồn khác nhau (từ các bộ);
Học phí và các loại phí khác thu được từ sinh viên trong nước và sinh viên nước ngoài; Nguồn thu từ các hợp đồng nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, hợp đồng đào tạo, dịch vụ tư vấn, bản quyền... Khi nguồn thu tăng lên, các trường đại học sẽ có những nguồn lực tài chính tăng đầu tư cho cơ sở vật chất, trang thiết bị, nguồn nhân lực… Qua đó, nâng cao chất lượng giáo dục giáo dục đại học.
Tuy nhiên, thực tế ở nước ta lại khác so với các quốc gia trên thế giới, nguồn tăng thu của các trường đại học hiện nay vẫn là tăng quy mô đào tạo chứ chưa huy động được các nguồn thu từ các hoạt động dịch vụ chuyển giao khoa học công nghệ và dịch vụ tư vấn giáo dục đào tạo theo hợp đồng cho các tổ chức và cá nhân trong nước….
Các trường đại học được tự chủ về mức chi nhưng tự chủ về thu chưa tương xứng, dẫn tới hiệu quả của việc thực hiện tự chủ không hơn là bao so với không tự chủ. Trong thời gian dài, do bị khống chế về trần học phí, mức trần học phí thường thấp, thu không đủ chi, cho nên một số cơ sở giáo dục ĐHCL xé rào, ban hành nhiều khoản thu ngoài quy định, dẫn đến thiếu công khai, minh bạch trong việc sử dụng nguồn thu.
Việc duy trì mức học phí thấp, dẫn đến các cơ sở giáo dục ĐHCL không có đủ nguồn để cải thiện thu nhập cho giảng viên từ nguồn học phí chính quy, không thu hút và giữ được những giảng viên có trình độ tham gia giảng dạy. Để có nguồn bổ sung thu nhập, các trường phải khai thác từ các hoạt động đào tạo không chính quy, dẫn đến thời gian đứng lớp của giảng viên đại học phần lớn bị quá tải.
Hầu hết các giảng viên đại học đều vượt định mức giờ giảng theo quy định, có những trường hợp vượt tới 150% đến 200% định mức giờ giảng. Điều này khiến cho việc giảng viên đại học không có thời gian để nghiên cứu khoa học, nâng cao trình độ nghiệp vụ, đổi mới nội dung bài giảng, phương pháp sư phạm... Đây cũng là một trong những nguyên nhân chính ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo.
Một số đề xuất và kiến nghị
Để nâng cao hiệu quả thực hiện cơ chế tự chủ tài chính của các trường ĐHCL, nâng cao chất lượng đào tạo, cần thiết phải triển khai một số nội dung sau:
Thứ nhất, các bộ, ngành cần sớm ban hành các văn bản hướng dẫn, các tiêu chí đánh giá mức độ và chất lượng hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị được giao tự chủ nhằm tháo gỡ khó khăn về cơ chế, chính sách. Đồng thời, tăng cường kiểm tra, rà soát, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các tiêu chuẩn, định mức và mở rộng lĩnh vực giao quyền tự chủ cho các đơn vị; Sửa đổi chế độ khấu hao tài sản cố định; Sửa đổi chính sách phí, lệ phí cho phù hợp với điều kiện thực tế.
Nhà nước cũng cần đổi mới phương pháp phân bổ kinh phí NSNN cho các cơ sở giáo dục đại học theo kết quả đầu ra; giao ngân sách gắn với nhiệm vụ và sản phẩm cuối cùng; giao ngân sách gắn với các hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật trong đào tạo, định mức phân bổ chi phí đào tạo, có sự phân biệt giữa cơ sở hoạt động có chất lượng hiệu quả với cơ sở kém chất lượng, không hiệu quả, đồng thời, thực hiện cơ chế đặt hàng đối với đào tạo đại học. Tất cả các cơ sở giáo dục đại học đều được tham gia vào quy trình tuyển chọn kinh phí đặt hàng đào tạo từ NSNN...
Thứ hai, trao nhiều quyền tự chủ về mức thu hơn nữa cho các trường ĐHCL, trước hết là thu học phí, lệ phí. Các cơ sở giáo dục ĐHCL được phép tính đủ chi phí tiền lương và chi phí hoạt động thường xuyên trong giá dịch vụ của đơn vị sự nghiệp công lập trên cơ sở khung giá do Nhà nước quy định, chi phí khấu hao tài sản cố định trong học phí của cơ sở giáo dục ĐHCL, đảm bảo nguyên tắc lấy thu đủ bù đắp chi phí đào tạo trong học phí.
Bên cạnh việc giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm tài chính cho các trường đại học cần quan tâm đến công tác quản lý nhà nước, nhất là công tác kiểm tra, giám sát, yêu cầu tính công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình của các trường đại học nhằm đảm bảo các trường đại học hoạt động theo đúng luật pháp. Các trường cũng cần tiếp tục đổi mới toàn diện: Xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ mang tính chi tiết, đảm bảo tính công khai, dân chủ và công bằng; Xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá kết quả hoạt động của từng người lao động.
Trong đó, chú trọng giải pháp chi trả thu nhập theo hiệu quả công việc, khuyến khích, hấp dẫn, thu hút người có năng lực, có trình độ. Đặc biệt là phải xây dựng được chiến lược tài chính hợp lý cho đầu tư cơ sở vật chất trong ngắn hạn và dài hạn. Ngoài ra, nên tích cực tìm kiếm, thu hút nguồn lực tài chính từ các nguồn dự án, nguồn vốn viện trợ nước ngoài.
Thứ ba, song song với việc tháo gỡ khó khăn trong lĩnh vực tự chủ tài chính, Nhà nước cần ban hành đầy đủ các quy định về chuẩn mực chất lượng đào tạo và tiêu chí kiểm định chất lượng đào tạo. Các quy định này cần từng bước tiếp cận với tiêu chuẩn khu vực, quốc tế và định kỳ thực hiện kiểm định chất lượng đào tạo của các cơ sở đào tạo.
Trong quá trình đào tạo cần yêu cầu các cơ sở đào tạo có trách nhiệm nâng cao chất lượng như đổi mới giáo trình, phương pháp giảng dạy, cơ sở vật chất trang thiết bị; đồng thời, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm định chất lượng đào tạo thông qua các cơ quan quản lý nhà nước cũng như thông qua các tổ chức kiểm định độc lập.
Nhìn chung, để hoat động giáo dục đại học hoạt động có chất lượng, trước mắt, cần tập trung kiểm tra, rà soát lại việc đảm bảo điều kiện giáo viên, cơ sở vật chất và chất lượng đào tạo đối với các trường được thành lập mới. Các cơ quan chuyên quản cần kiên quyết chấn chỉnh đối với các trường chưa đảm bảo đủ các tiêu chí quy định về thành lập trường, tiêu chí về giáo viên, cơ sở vật chất theo quy định, cần thiết yêu cầu Tự chủ tài chính đối với đại học công lập sáp nhập hoặc đình chỉ hoạt động để củng cố chất lượng, khi nào đủ chất lượng mới được tiếp tục hoạt động.
Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Trường Giang, Vụ Hành chính sự nghiệp, 2014, Đổi mới cơ chế tài chính đối với các cơ sở giáo dục ĐHCL gắn với nâng cao chất lượng đào tạo, thực hiện mục tiêu công bằng và hiệu quả, Bộ Tài chính;
2. Huỳnh Thành Đạt và cộng sự, 2010, Cơ chế hoạt động và các mối quan hệ trong nội bộ Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, Đề tài Nghiên cứu cấp Đại học Quốc gia;
3. Lê Văn Hảo, 2008, Mô hình phát triển tài chính đại học, trường Đại học Nha Trang. Kết luận số 37/TB/TW ngày 26/5/2011 của Bộ Chính trị về Đề án “Đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, đẩy mạnh xã hội hóa một số loại hình sự dịch vụ sự nghiệp công”;
4. Kết luận số 37/TB/TW ngày 26/5/2011 của Bộ Chính trị về Đề án “Đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, đẩy mạnh xã hội hóa một số loại hình sự dịch vụ sự nghiệp công”;
5. Nghị định số 16/2015/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 14/2/2015, Quy định cơ chế tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp công lập;
6. Nghị quyết số 77/NQ-CP của Chính phủ ban hành ngày 24/10/2014, Thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục ĐHCL giai đoạn 2014 – 2017.