Để quản trị dòng tiền của doanh nghiệp đạt hiệu quả cao
Tiền vốn là yếu tố thúc đẩy hoạt động kinh doanh phát triển, nếu không có nó, doanh nghiệp chắc chắn sẽ thất bại. Doanh nghiệp luôn phải đối mặt với áp lực về dòng tiền và khả năng tiếp cận tài chính hạn chế, điều này thể hiện rất rõ khi doanh nghiệp gặp phải tình trạng thiếu tiền mặt bất ngờ. Cũng vì vậy mà vai trò của nhà quản trị tài chính chuyên nghiệp trong việc duy trì dòng tiền ngày càng trở nên quan trọng hơn.
Quản trị dòng tiền là hoạt động hoạch định và tổ chức điều khiển để cân đối dòng tiền ra, vào theo yêu cầu hoạt động của doanh nghiệp (DN) nhằm tối đa hóa giá trị của DN. Do đó, để quản trị dòng tiền hiệu quả, các DN cần lưu ý một số điểm như sau:
Sử dụng phương trình Dupont để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản của DN
Năm 1909, nhà sản xuất DuPont của Mỹ đã giới thiệu hệ thống kiểm soát quản lý để theo dõi và kiểm soát hiệu quả kinh doanh, kết hợp giữa tỷ lệ lợi nhuận và việc sử dụng dòng tiền trong bối cảnh đầu tư vào tài sản nhằm tạo ra lợi nhuận. Kể từ thời điểm đó, phân tích tỷ lệ và dòng tiền đã phát triển thành nhiều định dạng phức tạp. Tuy nhiên, công thức ban đầu của DuPont là:
ROA= NI/VKDbq=NI/(Doanh thu thuần)*(Doanh thu thuần)/VKDbq = ROS * Vòng quay vốn kinh doanh
Như vậy, có 2 nhân tố tác động đến ROA là ROS (phản ánh trình độ quản trị doanh thu, chi phí của DN) và vòng quay vốn kinh doanh (phản ánh khả năng khai thác, sử dụng tài sản của DN). Thông qua việc phân tích các nhân tố tác động đến ROA, một DN có thể kiểm tra xu hướng lợi nhuận trên tài sản hàng năm và sau đó so sánh hiệu quả với các DN cùng ngành. Ngoài ra, có thể kiểm tra tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh bằng cách phân tích tỷ lệ sử dụng tài sản, từ đó kiểm tra việc sử dụng tài sản hiệu quả hay không và tác động như đến chuyển động của dòng tiền. Do đó, lợi nhuận trên tài sản có thể được coi là bội số của tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu và tốc độ quay vòng tài sản. Nếu lợi nhuận tổng thể được cải thiện thì đó phải là do khả năng sinh lời được cải thiện hoặc việc sử dụng tài sản được cải thiện hoặc cả hai.
Sử dụng báo cáo lưu chuyển tiền tệ được lập theo phương pháp trực tiếp hoặc gián tiếp
Tháng 11/1987, Ủy ban Chuẩn mực Kế toán Tài chính (FASB) tuyên bố về Chuẩn mực Kế toán được thông qua, yêu cầu đưa báo cáo lưu chuyển tiền tệ vào báo cáo tài chính. Tuyên bố của FASB cho phép lập Báo cáo lưu chuyển tiền tệ bằng một trong hai phương pháp - trực tiếp hoặc gián tiếp - để tính toán dòng tiền. Phương pháp trực tiếp phản ánh dòng tiền vào và dòng tiền ra thực tế liên quan đến các hoạt động.
Quy tắc kế toán mới khuyến khích phương pháp trình bày này đồng thời cũng cho phép phương pháp tính toán gián tiếp bắt đầu từ thu nhập ròng và thực hiện một loạt điều chỉnh về khấu hao, thuế thu nhập hoãn lại, lãi và lỗ khi bán thiết bị và hoạt động kinh doanh cũng như những thay đổi về vốn lưu động.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo phương pháp trực tiếp: Là phương pháp trực tiếp để tính toán dòng tiền có cấu trúc chặt chẽ và thể hiện dòng tiền vào hoặc dòng tiền thực tế của từng khoản mục phát sinh. Việc tính toán thu nhập ròng bằng tiền mặt bắt đầu bằng tiền thu được từ việc bán hàng và sau đó khấu trừ cho nhà cung cấp, nhân viên, chủ nợ và cổ đông cũng như chính phủ dưới hình thức thuế.
Với việc tập trung vào dòng tiền thực tế và xác định cụ thể các khoản mục như dòng tiền từ hoạt động bán hàng, giá vốn hàng bán và việc rút nợ bắt buộc, nó mang lại thông tin bổ sung về cấu trúc dòng tiền mà không thể tìm thấy theo cách tiếp cận gián tiếp. Ngoài ra, định dạng chuẩn hóa của tạo điều kiện thuận lợi cho việc so sánh giữa các DN.
Sử dụng thông tin về dòng tiền của đối thủ cạnh tranh để phân tích, so sánh
Một kinh nghiệm rất hữu ích cho bất kỳ nhà quản lý DN nào là so sánh dòng tiền với một DN khác hoạt động trong cùng lĩnh vực. Do đó, các DN sẽ phải cẩn thận về quản lý tiền mặt trong quá trình sản xuất cũng như hoạt động quảng bá thương hiệu và đầu tư vốn vào nhà máy và máy móc...
Kiểm tra kỹ chu kỳ chuyển đổi tiền mặt của doanh nghiệp
Có thể lấy ví dụ về Tập đoàn Dell của Mỹ - DN đạt được sự tăng trưởng cao, họ làm thế nào điều này có thể được quản lý tốt nhất về mặt dòng tiền? Russ Banham đã báo cáo trên Tạp chí CFO tháng 12/1997 dành cho các giám đốc điều hành cấp cao với chủ đề là dòng tiền của Dell trong đó có sự tham gia chặt chẽ của thủ quỹ công ty và CFO. Trong ngành kinh doanh máy tính thì không ai biết điều đó rõ hơn Tom Meredith của Tập đoàn Dell. Kể từ khi đảm nhận vị trí CFO tại công ty Round Rock, có trụ sở tại Texas vào năm 1993 – một công việc phải đối mặt với nhiều thách thức – Meredith đã đạt được những thành tựu to lớn. Ông luôn tin rằng, dù đúng hay sai, thì việc một công ty tập trung vào dòng tiền sẽ luôn có tác động tốt đến hiệu quả hoạt động của công ty đó.
Nỗ lực tái cơ cấu tài chính của Dell được thực hiện vào cuối năm 1995 khi hàng tồn kho của công ty ngày càng tăng, các khoản phải thu tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng doanh thu và việc quản lý tài sản bị suy yếu do kết quả kinh doanh mờ nhạt trong nhiều quý. Meredith nhận định rằng cần giảm bớt gánh nặng cho bàn đạp tăng trưởng và chuyển trọng tâm sang tính thanh khoản và lợi nhuận. Chính nhận định và quan điểm của Meredith về tầm quan trọng của dòng tiền và tính thanh khoản nên đã giúp Dell có những thay đổi theo hướng tích cực sau đó.
Chuyển hóa hàng tồn kho và các khoản phải thu thành tiền mặt: “Chúng tôi đã gửi một thông điệp nhất quán tới mọi người để tập trung vào ba điều – quản lý tài sản, tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh và khả năng chuyển đổi tiền mặt” trong đó tốc độ là điều cốt yếu - Danny Caswell, giám đốc của bộ phận quản lý tài sản của Dell chia sẻ. Để làm được điều đó, Dell đã đi theo con đường riêng của mình, thu hút sự tham gia của tất cả mọi người từ nhân viên đến nhà cung cấp, nhà cung cấp và khách hàng.
Để xác định sự cải thiện về tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh, nhóm quản lý tài sản của Dell đã phát triển một bộ tiêu chuẩn nội bộ. Các số liệu bao gồm số ngày chưa thanh toán (DSO), số ngày tồn kho (DSI), số ngày phải trả (DPO). Cộng DSO và DSI, sau đó trừ DPO và bạn sẽ có số liệu chính mà Dell sử dụng để đo lường tính thanh khoản của mình: chu kỳ chuyển đổi tiền mặt (CCC).
DSO + DSI − DPO = CCC
Chu kỳ chuyển đổi tiền mặt của Dell đã đi từ mức chấp nhận được là 40 ngày đến mức âm 5 ngày trong quý 4 năm 1997. Caswell cho biết cải tiến lớn nhất là ở lĩnh vực tồn kho, đã giảm từ hơn 30 ngày xuống còn 13 ngày, công ty đã phân tích các yếu tố tác động hàng tồn kho chính để tìm ra các biện pháp xử lý.
Chuẩn bị báo cáo lưu chuyển tiền tệ, chi tiết các khoản thu và chi phí bán hàng để dự báo dòng tiền hàng tháng và dự báo dòng tiền trong dài hạn
Cùng với việc quản lý dòng tiền trong quá khứ, việc lập kế hoạch dòng tiền nhằm đảm bảo tính thanh khoản trong tương lai là điều cần thiết đối với bất kỳ DN nào. Khi ngân hàng hoặc nhà đầu tư muốn biết kế hoạch dòng tiền của DN trong 12 tháng tới, nhưng để lập được kế hoạch dòng tiền có thể là một quá trình lâu dài và khó khăn.
Tất cả các DN phải duy trì tính thanh khoản để đáp ứng các cam kết về tiền mặt cho chủ nợ, nhân viên và cổ đông. Thậm chí những đơn đặt hàng tốt sẽ trở nên vô dụng nếu không đủ tiền mặt cần thiết để tài trợ cho việc sản xuất sản phẩm của DN. Do đó, khả năng dự báo lưu chuyển tiền tệ và theo dõi tiến độ vận động của các dòng tiền là một yêu cầu quan trọng trong lập kế hoạch kinh doanh.
Mặt khác, nếu DN tiêu thụ hàng hóa và áp dụng chính sách nới lỏng bán chịu thì việc phân tích các khoản thu sẽ có tầm quan trọng đặc biệt. Tuy nhiên, nếu DN áp dụng chính sách thắt chặt bán chịu thì sẽ tập trung nhiều hơn vào vấn đề tiền mặt.
Tính toán và phân tích các chỉ tiêu tạo tiền của doanh nghiệp
Bốn hệ số sau đây (được biểu thị dưới dạng phương trình) sẽ mang lại dữ liệu hữu ích giúp DN quản lý dòng tiền của mình, đặc biệt có lợi nếu sử dụng để so sánh với giá trị trung bình dài hạn từ các DN cùng lĩnh vực kinh doanh. Vì trên thực tế việc phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ tương đối phức tạp và còn khá mới mẻ nên có rất ít dữ liệu để so sánh. Do đó, khi phân tích sẽ cần trích xuất thông tin từ những bộ phận liên quan để có được thông tin mà DN mong muốn.
- Hệ số doanh thu bằng tiền so với doanh thu bán hàng:
Hệ số doanh thu bằng tiền so với doanh thu= (Doanh thu bằng tiền)/(Doanh thu thuần)
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ thu tiền từ doanh thu bán hàng trong kỳ, qua đây đánh giá khả năng thu hồi tiền từ doanh thu. Chỉ tiêu này có thể được sử dụng như một công cụ dự báo hiệu quả.
- Hệ số doanh thu bằng tiền so trên vốn kinh doanh (VKD)
Hệ số doanh thu bằng tiền so trên vốn kinh doanh = (Doanh thu bằng tiền)/(VKD bình quân)
Chỉ tiêu này sánh tiền mặt được tạo ra từ hoạt động kinh doanh với tổng vốn kinh doanh của DN – do đó chúng ta có thể giám sát mức độ hiệu quả của việc sử dụng các khoản đầu tư của mình.
- Hệ số dòng tiền tự do từ bán hàng
Hệ số dòng tiền tự do từ bán hàng = (Dòng tiền tự do)/(Doanh thu bán hàng)
Chỉ tiêu này xem xét lợi nhuận ròng của dòng tiền trên cơ sở dòng tiền tự do đạt được từ việc bán hàng. Điều này một lần nữa sẽ là một công cụ hữu ích trong việc dự báo giá trị gia tăng.
- Hệ số dòng tiền tự do từ tài sản hoạt động
Hệ số dòng tiền tự do từ tài sản hoạt động = (Dòng tiền tự do)/(Tài sản hoạt động)
Chỉ tiêu này không có sự so sánh trực tiếp về lãi và lỗ trong hoạt động kinh doanh của DN mà so sánh việc tạo ra tiền ròng từ hoạt động kinh doanh với tài sản hoạt động.
Trong những năm qua, chúng ta đã chứng kiến sự phát triển của một môi trường kinh doanh ngày càng biến động và phức tạp. Bản chất mang tính chu kỳ của thị trường và nền kinh tế đã khiến việc dự đoán chính xác dòng tiền trở thành vũ khí quản lý quan trọng nhất trong việc tránh những rủi ro của DN và mang đến cho DN hiệu quả hoạt động một cách có kiểm soát.
Để hoàn thiện việc phân tích dòng tiền của một DN, trước tiên cần phải nắm bắt kỹ lưỡng các thành phần khác nhau tạo nên dòng tiền trong DN. Tiền mặt luôn luôn cần thiết để tài trợ cho các tài sản, để thanh toán cho ngân hàng, trả cổ tức cho cổ đông, nộp thuế đến hạn, và thực hiện nghiên cứu và phát triển sản phẩm... Nhiệm vụ cải thiện tỷ suất lợi nhuận của dòng tiền, nâng cao năng suất của tài sản và tăng trưởng bền vững đều có điểm chung là cần phải hiểu rõ hơn về việc quản trị hiệu quả dòng tiền. Hai thập kỷ qua đã chứng kiến tầm quan trọng của báo cáo tài chính và phân tích dòng tiền để kiểm tra hiệu quả kinh doanh và chiến lược kinh doanh của DN. Do đó, nhận thức về điểm mạnh và điểm yếu trong công tác quản trị dòng tiền là điều cần thiết đối với bất kỳ ai chịu trách nhiệm hoặc tham gia vào quá trình đưa ra các quyết định tài chính một DN.
Quản trị dòng tiền cho phép chúng ta rút ra một số kết luận sơ bộ về hiệu quả hoạt động của một DN và các mô hình đầu tư của DN đó. Chúng ta cũng có thể kiểm tra khả năng huy động vốn và mô hình tạo tiền của công ty. Quản trị dòng tiền hiệu quả cho phép chúng ta hiểu đúng về hoạt động hiện tại và lịch sử của một DN. Phân tích dòng tiền về cơ bản là nhìn về quá khứ để cho chúng ta biết là “DN hiện đang ở đâu”.
Tài liệu tham khảo:
- Bùi Văn Vần, Vũ Văn Ninh – Giáo trình “Tài chính doanh nghiệp” – NXB Tài Chính, 2015;
- Altman, E.I. (1968), ‘‘Financial ratios, discriminant analysis and the prediction of corporate bankruptcy.’’ Journal of Finance, vol. 23, no. 4, pp. 589–609;
- Keith Checkley (2002), “Strategic Cash Flow Management” - published 2002 by Capstone Publishing (a Wiley company) - United Kingdom;
- McKinsey & Co. (1979), “Economic Value to the Customer” - Forbus and Mehta;
- Whaller, D. & Urry, M. (1991), ‘‘Cashflow becomes the determining factor,’’ Financial Times.