Đề xuất bổ sung đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp

Lê Hà

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đang lấy ý kiến về dự thảo Luật Việc làm (sửa đổi), trong đó, Bộ này đề xuất bổ sung đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp (BHTN).

Đến năm 2023, số người tham gia BHTN chiếm 31,5% lực lượng lao động trong độ tuổi.
Đến năm 2023, số người tham gia BHTN chiếm 31,5% lực lượng lao động trong độ tuổi.

Đề xuất bổ sung 3 nhóm đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho biết, Nghị quyết số 28-NQ/TW đặt mục tiêu phấn đấu đến năm 2030: "Khoảng 45% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia BHTN".

Giai đoạn 2015 - 2023, số người tham gia BHTN tăng qua các năm (bình quân tăng khoảng trên 6%/năm), đến năm 2023, số người tham gia BHTN chiếm 31,5% lực lượng lao động trong độ tuổi. Do đó, để phấn đấu đạt mục tiêu đến năm 2030 khoảng 45% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia BHTN là một thách thức lớn.

Theo Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Luật Việc làm hiện nay, đối tượng tham gia BHTN chưa bao phủ hết các đối tượng có quan hệ lao động, chưa quy định người lao động có hợp đồng lao động từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng thuộc đối tượng tham gia BHTN (đây là nhóm có nguy cơ mất việc làm cao và thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc).

Mặt khác, Luật cũng chưa bao phủ đối với nhóm người làm việc không trọn thời gian, người quản lý doanh nghiệp, kiểm soát viên, người đại diện vốn nhà nước, người đại diện phần vốn của doanh nghiệp tại công ty và công ty mẹ, người quản lý điều hành hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã có hưởng lương.

Để đạt mục tiêu đề ra, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đề xuất bổ sung đối tượng tham gia BHTN gồm: (1) Người lao động có giao kết hợp đồng lao động xác định thời hạn từ 01 tháng trở lên; (2) Người làm việc không trọn thời gian, có tổng mức tiền lương trong tháng bằng hoặc cao hơn tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc thấp nhất bằng một nửa mức lương tối thiểu tháng vùng cao nhất do Chính phủ công bố; (3) Người quản lý doanh nghiệp, kiểm soát viên, người đại diện phần vốn nhà nước, người đại diện phần vốn của doanh nghiệp tại công ty và công ty mẹ, người quản lý điều hành hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã có hưởng tiền lương.

Linh hoạt mức đóng bảo hiểm thất nghiệp

Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội cho biết, Luật Việc làm quy định mức đóng BHTN của người lao động và người sử dụng lao động cố định là 1% mức tiền lương tháng. Do đó, chưa đảm bảo tính linh hoạt trong điều chỉnh mức đóng bảo hiểm thất nghiệp, nhất là trong các trường hợp thiên tai, dịch bệnh, khủng hoảng kinh tế, suy thoái khi Quỹ kết dư lớn.

Thực tế, trong bối cảnh đại dịch COVID-19 vừa qua, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 03/2021/UBTVQH15, Nghị quyết số 24/2022/UBTVQH15 nhằm hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động bị ảnh hưởng từ Quỹ BHTN.

Tại dự thảo Luật Việc làm (sửa đổi), Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đề xuất sửa đổi mức đóng BHTN theo hướng: Người lao động đóng tối đa bằng 1% tiền lương tháng; Người sử dụng lao động đóng tối đa bằng 1% quỹ tiền lương tháng của những người lao động đang tham gia BHTN; Nhà nước hỗ trợ tối đa 1% quỹ tiền lương tháng đóng BHTN của những người lao động đang tham gia BHTN và do ngân sách trung ương bảo đảm.

Hằng tháng, người sử dụng lao động đóng BHTN theo mức quy định và trích tiền lương của từng người lao động theo mức quy định để đóng cùng một lúc vào Quỹ BHTN.

Thời điểm đóng BHTN của người sử dụng lao động và người lao động là thời điểm đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc. Người lao động không làm việc và không hưởng tiền lương từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng thì không phải đóng BHTN tháng đó. Người sử dụng lao động phải thông báo cho cơ quan bảo hiểm xã hội đối với trường hợp này.

Tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHTN là tiền lương tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội.

Trường hợp mức tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp cao hơn 20 lần mức lương tối thiểu tháng theo vùng do Chính phủ công bố thì mức tiền lương tháng đóng BHTN bằng 20 lần mức lương tối thiểu tháng theo vùng tại thời điểm đóng BHTN.

Ngoài các quy định trên, dự thảo Luật Việc làm (sửa đổi) cũng quy định rõ việc chậm đóng, trốn đóng BHTN và biện pháp xử lý vi phạm về chậm đóng, trốn đóng BHTN thực hiện theo quy định tại Luật Bảo hiểm xã hội.