Dư nợ cấp tín dụng xanh đạt hơn 560.000 tỷ đồng
Đến 30/9/2023, dư nợ cấp tín dụng xanh đạt hơn 564.000 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng khoảng 4,4% tổng dư nợ toàn nền kinh tế; tập trung chủ yếu vào ngành năng lượng tái tạo, năng lượng sạch (chiếm gần 45%) và nông nghiệp xanh (hơn 30%).
Thông tin trên được nêu ra tại hội thảo “Dẫn nguồn vốn lớn cho tín dụng xanh”, do Báo Đầu tư phối hợp Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) tổ chức sáng 4/12.
Phát biểu tại hội thảo, Tổng biên tập Báo Đầu tư Lê Trọng Minh nêu rõ, phát triển bền vững đang ngày càng trở thành xu thế bao trùm trên thế giới và kinh tế tuần hoàn, tăng trưởng xanh là mô hình được nhiều quốc gia lựa chọn. Với Việt Nam, tăng trưởng xanh và phát triển bền vững có mối quan hệ hữu cơ, mật thiết với nhau, vừa là quan điểm, vừa là mục tiêu xuyên suốt trong các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước.
Theo ông Lê Trọng Minh, hành trình hiện thực hóa mục tiêu xanh của Việt Nam không chỉ đòi hỏi việc hoàn thiện cơ chế chính sách, nâng cao nhận thức, xây dựng hệ thống giám sát đủ năng lực thực thi cam kết mà còn cần tới một nguồn lực khổng lồ. Theo ước tính của Ngân hàng Thế giới (năm 2022), Việt Nam sẽ cần khoảng 368 tỷ USD đến năm 2040, tương đương 6,8% GDP mỗi năm khi theo đuổi lộ trình phát triển kết hợp khả năng chống chịu và phát thải ròng bằng "0". Trong đó, hành trình khử carbon nhằm đáp ứng các cam kết quốc tế chiếm khoảng 30% nhu cầu nguồn lực. Tuy nhiên, khu vực công không thể đáp ứng đủ con số đó.
Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, để đạt được các mục tiêu về tăng trưởng xanh và phát thải ròng bằng 0 trong giai đoạn 2021 - 2050, Việt Nam sẽ cần huy động thêm 144 tỷ USD ngoài nguồn ngân sách nhà nước, tương đương với 2,2% GDP.
“Với một quốc gia đang phát triển, đang trong quá trình chuyển đổi, có thu nhập trung bình thấp, việc huy động nguồn lực lớn như vậy là một bài toán không đơn giản. Trong bối cảnh đó, tài chính xanh là một trong những lời giải, và tín dụng xanh là một chìa khóa”, ông Lê Trọng Minh nhấn mạnh.
Theo Phó Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, Ngân hàng Nhà nước Phạm Thị Thanh Tùng, giai đoạn 2017 - 2022, dư nợ cấp tín dụng của hệ thống đối với các lĩnh vực xanh có mức tăng trưởng dư nợ bình quân đạt hơn 23%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng chung của nền kinh tế (15%).
Đến 30/9/2023, dư nợ cấp tín dụng xanh đạt hơn 564 nghìn tỷ đồng, chiếm tỷ trọng khoảng 4,4% tổng dư nợ toàn nền kinh tế. Trong số 12 lĩnh vực xanh Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn các tổ chức tín dụng cho vay, dư nợ tập trung chủ yếu vào các ngành năng lượng tái tạo, năng lượng sạch (chiếm gần 45%) và nông nghiệp xanh (hơn 30%).
Từ góc độ của tổ chức tín dụng, Phó Tổng Giám đốc Agribank Phùng Thị Bình cho biết, từ nguồn vốn tài trợ của Ngân hàng, nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao đã và đang hình thành trên khắp cả nước, như mô hình trồng hoa (Lâm Đồng), cánh đồng mẫu lớn (Cần Thơ), cá tra (An Giang), chăn nuôi lợn (Hà Nam)…, tạo được sự đồng thuận cao giữa doanh nghiệp và người dân.
Đến nay, doanh số cho vay nông nghiệp sạch, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao của Agribank đạt trên 30.000 tỷ đồng, chiếm 50% tổng nguồn vốn đầu tư cho lĩnh vực này, dư nợ đạt 2.000 tỷ đồng với hơn 300 khách hàng (trong đó, hơn 98% khách hàng là cá nhân, chủ trang trại, tổ hợp tác...).
Dù vậy, đại diện Ngân hàng Nhà nước chỉ rõ, hiện vẫn chưa có quy định chung của Quốc gia về tiêu chí, danh mục dự án xanh cho các ngành/lĩnh vực theo hệ thống phân ngành kinh tế. Việc đầu tư vào các ngành/lĩnh vực xanh, nhất là lĩnh vực thường đòi hỏi thời gian hoàn vốn dài, chi phí đầu tư lớn, trong khi nguồn vốn cho vay của các tổ chức tín dụng thường là vốn huy động ngắn hạn, khó khăn cho các tổ chức tín dụng trong việc cân đối vốn và bảo đảm tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn theo quy định…
Do vậy, để tín dụng xanh phát triển, đại biểu kiến nghị cần tiếp hoàn thiện hành lang pháp lý, có hướng dẫn về danh mục xanh và tiêu chí xác định dự án xanh phù hợp với phân ngành kinh tế của Việt Nam làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng có căn cứ thẩm định, đánh giá và giám sát khi thực hiện cấp tín dụng xanh.
Cùng với đó, cần xây dựng lộ trình thực hiện các cơ chế chính sách hỗ trợ các ngành xanh (thuế, phí, vốn, kỹ thuật, thị trường, đến quy hoạch, chiến lược phát triển…) của từng ngành/lĩnh vực một cách đồng bộ nhằm thu hút và phát huy hiệu quả của nguồn vốn tín dụng xanh; nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển thị trường vốn, thị trường trái phiếu xanh, tạo kênh huy động vốn cho các chủ đầu tư có thêm nguồn lực triển khai các dự án xanh.
Khẳng định nhu cầu với nguồn vốn tín dụng xanh của Việt Nam là rất rõ ràng và mức cầu này cũng phụ thuộc vào độ hấp dẫn của tín dụng xanh, Chuyên gia Kinh tế trưởng Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam Nguyễn Bá Hùng khuyến nghị, cùng với hoàn thiện khung pháp lý về kinh tế xanh và tài chính xanh; cần xác định mục tiêu định lượng cụ thể phù hợp với cam kết quốc tế của Việt Nam, và tạo động lực phát triển tài chính xanh.
Ngoài ra, ông Nguyễn Bá Hùng cho rằng, Việt Nam cần chủ động tiếp cận các nguồn vốn quốc tế thông qua hợp tác song phương và các tổ chức tài chính quốc tế để thu hút nguồn vốn; đẩy nhanh tiến độ thực hiện xác nhận chứng chỉ carbon, hình thành thị trường carbon trong nước và kết nối với thị trường carbon quốc tế…